Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

Đài Loan và lịch sử 50 năm bị Nhật Bản đô hộ

năm 1895 Nhật Bản lấy được đảo Đài Loan từ triều đình nhà Thanh, đảo Đài Loan làm thuộc địa đầu tiên của đất nước mặt trời mọc
Trong 50 năm chiếm đóng, Nhật Bản đã tiêm nhiễm cho đảo những truyền thống, văn hoá và cả những chuyên môn nghề nghiệp
Di sản thuộc địa của giai đoạn người Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan vẫn bén rễ sâu sắc và tồn tại đến ngày nay ở cả đảo Nhật lẫn đảo Đài
Chuyện gì đã xảy ra trong 50 năm ấy? Hậu quả để lại cho nhân dân hai nước là như thế nào?

Khởi đầu
Khi người Nhật chiếm Đài, kinh tế đảo dưới cai trị nhà Thanh chỉ là xã hội nông nghiệp với số ít sản phẩm xuất khẩu
Thập niên 1860, sức mạnh phương Tây đã bổ sung cảng Đạm Thuỷ ở Tân Bắc và cảng An Bình ở Đài Nam vào số những cảng hiệp ước [cảng ở Nhật Bản và Trung Quốc được thương mại tự do với phương Tây] và nhờ đó Đài Loan gây dựng được một thị trường xuất khẩu nhỏ sản phẩm long não và chè
Tuy nhiên đa số người Đài vẫn tự làm nông và nhìn chung không nhiều phát triển hạ tầng, giáo dục hay kinh tế. Chăm sóc y tế đại chúng chưa có, đảo Đài Loan có khí hậu nhiệt đới và muỗi hoành hành gây bệnh sốt rét làm ảnh hưởng đến nông suất
Nhật Bản muốn Đài Loan làm thuộc địa nông nghiệp, đảo Đài nuôi trồng và cung cấp thực phẩm và nguyên liệu thô như đường và gạo
Sản lượng tiêu thụ đường của Nhật Bản bắt đầu tăng nhanh sau chiến tranh Nga-Nhật 1905. Công ty như Morinaga và Meiji chào bán kẹo phương tây được dân Nhật ưa chuộng
Chính phủ Nhật Bản coi đường là nguồn năng lượng thiết yếu cho công nhân cổ cồn trắng và cổ cồn xanh, do đó nếu có thể nhập khẩu đường mà không cần sử dụng kho dự trữ ngoại hối [ít ỏi] của quốc gia [Nhật Bản] là tốt nhất

Phát triển nhà nước
Người Nhật Bản đầu tư lượng lớn nguồn lực vào Đài Loan dân số đảo lúc ấy 2.8 triệu
Để gìn giữ hoà bình, người Nhật Bản thực hiện một chiến dịch quân sự đặc biệt và một nhà nước cảnh sát áp bức
Năm 1895 Nhật Bản chiếm đảo và bắt giữ bất cứ ai bị coi là có hành động chống phá nhà nước, thường bị buộc tội danh là thổ phỉ và bị hành quyết
Năm 1898 số vụ hành quyết tăng từ 54 vụ năm ngoái lên 282 vụ, từ năm 1899 thực dân Nhật Bản hành quyết trung bình 716 người mỗi năm tội thổ phỉ, chính sách càng gây tâm lý chống xâm lược và sau đó nhà nước thuộc địa đã phải bãi bỏ chính sách này.
Đài Loan vẫn tiếp tục là một nhà nước cảnh sát, chính phủ quy định một giám sát viên cảnh sát cho mỗi 600 thường dân và tổ chức tuần tra 6 lần một ngày ở nơi trọng yếu [đông đúc, cơ quan chính quyền...]
Cảnh sát hay tiến hành lục soát thường kỳ và tịch thu tài sản các hộ gia đình
Người Hán sau rốt đã hợp tác với chương trình gìn giữ hoà bình của người Nhật, nhưng dân bản xứ ở vùng núi miền trung Đài Loan duy trì kháng cự hàng thập kỷ sau đó để lại những hậu quả thương tâm

Phát triển kinh tế
Sau khi đàn áp thành công những cuộc kháng cự chống thuộc địa, giữa thập niên 1900 Nhật Bản tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng và cải cách, xây cảng và đóng đường ray xe lửa kết nối với cảng
Năm 1908 các cảng ở thành phố Cơ Long và Cao Hùng đã nối với đường sắt, xây dựng những dự án và hệ thống thuỷ lợi khổng lồ để khống chế lũ lụt hằng năm
Nông dân cần ngân hàng và các tổ chức hiện đại [đầu thế kỷ 20 chưa có] để mua hạt giống và hàng hoá. Đến năm 1920 đã có 5 ngân hàng lớn đặt 50 văn phòng chi nhánh và 400 ngân hàng hợp tác xã cho vay rải rác trên đảo
Quan trọng nữa, những ngân hàng đã thiết lập quyền bất động sản và quyền sở hữu, hoá ra khó hơn người ta vẫn nghĩ – phải hoà giải tranh chấp đất đai và xử kiện những tranh cãi đường biên giới [mảnh đất] giữa những chủ đất
10 năm trước khi [đảo Đài Loan] bị thuộc địa hoá, nhà Thanh đã chi ra 12095 kilogam bạc để xác định chủ đất xác đáng, nhưng [chính quyền nhà Thanh] chưa bao giờ ghi chép các thương vụ mua bán bất động sản.
Chính quyền Nhật Bản chi ra 119 tấn bạc để cập nhật sổ ghi chép và bổ sung thêm chức năng ghi nhận lại các thương vụ mua bán
Tổng chi ngân sách của chính phủ Đài Loan lúc ấy chỉ có 28.35 tấn bạc mỗi năm, nhưng số tiền lớn chi ra để cập nhật ghi chép sở hữu đất đai cũng đã thu được hai lợi ích lớn: người ta biết rằng họ có thể đầu tư vào đất, biết rằng họ sở hữu và có thể thu lợi tức, và thứ hai là chính phủ bắt đầu thu thuế bất động sản từ chủ sở hữu đất và nhờ đó [chính phủ Đài Loan] có nguồn doanh thu từ thuế bất động sản để thay thế cho tiền chính phủ Nhật Bản viện trợ

Nhật Bản
Không hiếm câu chuyện chính quyền thực dân làm ảnh hưởng đến kinh tế và cuộc sống của người bản xứ bị đô hộ, nhưng hoá ra công cuộc thuộc địa hoá cũng ảnh hưởng ngược lại đến mẫu quốc
Trước thế chiến 1, sản lượng nông nghiệp ở Nhật Bản vẫn tăng trưởng đều, từ năm 1890 đến 1920 sản lượng gạo – cây trồng quan trọng nhất Nhật Bản – tăng 1.4% hằng năm chia đều cho cả tăng diện tích trồng lúa thêm 0.44% và tăng năng suất 0.94%
Thành tựu có được nhờ loại bỏ chế độ phong kiến, nông dân Nhật Bản bắt kịp những kỹ thuật trồng trọt mới du nhập từ phương Tây và xuất hiện những giống lúa năng suất cao
Tuy nhiên, thành tựu nông nghiệp phần lớn thụt lùi lại sau thế chiến 1 khi năm 1918 giá gạo bắt đầu tăng do lạm phát và đầu cơ, giá lương thực cao gây ra bất ổn xã hội cho dân thường Nhật Bản và căng lên đỉnh điểm là cuộc bạo loạn lúa gạo 1918 sự kiện vô tiền khoáng hậu trong lịch sử hiện đại Nhật Bản diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1918 với 66000 người biểu tình trong hơn 400 vụ chống đối
Cuộc bạo loạn dẫn đến thủ tướng Terauchi và nội các từ chức. Tìm cách để dân số đang trong quá trình đô thị hoá của Nhật Bản bấy giờ không bị đói, chính phủ lên thay thế đã nhìn sang thuộc địa Đài Loan và Hàn Quốc để lấy nguồn gạo thặng dư bổ sung cho nước mẹ

Cách mạng xanh Đài Loan
Nông nghiệp Đài Loan tăng trưởng chậm chỉ 1-2% hằng năm. Người Đài buộc phải thay gạo trong khẩu phần bằng khoai tây ngọt để dành gạo lại xuất khẩu sang Nhật Bản
Năm 1920 tăng trưởng sản lượng hằng năm đã lên 4% nhờ cơ sở hạ tầng và kiến thức nông nghiệp Nhật Bản chuyển sang Đài Loan: giống lúa năng suất cao và kỹ thuật cày ruộng quy mô và máy đập lúa chạy điện nhờ đạp chân
Nhật Bản độc quyền mua nông sản Đài Loan, được bảo hộ thuế quan
năm 1915 Đài Loan xuất 113 nghìn tấn gạo sang Nhật Bản thì đến năm 1935 con số nâng lên 705 nghìn tấn
cuối thập niên 1930 thì 36% gạo và 92% đường nhập khẩu vào Nhật Bản là từ Đài Loan – câu chuyện không khác gì New Zealand với nước Anh
trong 3 thập kỷ từ 1911 đến 1941 sản phẩm quốc nội GDP Đài Loan tăng 19% mỗi thập niên, thua Nhật Bản bấy giờ tăng 26% mỗi thập niên nhưng đã vượt xa đại lục bên kia eo biển
chính sách nhập khẩu gạo từ thuộc địa của Nhật Bản – thi hành để giải quyết vấn đề [thiếu gạo] trước mắt – đã để lại loạt hậu quả trong lịch sử thế giới, cho phép chính phủ Nhật Bản tránh được bạo loạn thành thị mà không cần chi quá nhiều tiền ngoại hối quý giá, nhưng cái giá phải trả đè lên dân số nông thôn Nhật Bản – giá gạo sụt giảm và ngành nông nghiệp Nhật Bản bắt đầu hứng chịu rối loạn xã hội
phe cấp tiến trong giới quân sự Nhật Bản, sau rốt đã tận dụng cơ hội, làm lý do để tổ chức xâm lược Mãn Châu năm 1931

Sức khoẻ người dân
Tăng trưởng kinh tế nhìn chung là tốt nhưng liệu có giúp ích có dân thường Đài Loan?
Điều tra về dinh dưỡng và y tế con người cho thấy câu trả lời “có”. Riêng y tế cộng đồng cho thấy giảm được sốt rét và bệnh dịch khác đã cải thiện lâu dài cho người bản xứ
Năm 1906 tuổi thọ trung bình của người sinh ra ở Đài Loan là 29
Đến giai đoạn 1936-1940 tuổi thọ trung bình đã nâng lên 45
Thập niên 1930 trước chiến tranh, người Đài Loan được chào bán dồi dào thực phẩm, sản lượng đỗ và rau quả tăng gấp 3 lần thập niên 1920 nhờ cách mạng xanh
Nhật Bản cũng thi hành chương trình giáo dục lớn, năm 1917 chỉ 13% thiếu niên Đài Loan đi học, đến năm cuối chế độ Nhật Bản tăng lên 71% năm 1949
Ghi nhận lịch sử cho thấy, chiều cao trung bình của nam giới Đài Loan đã tăng, nhờ cải thiện khẩu phần, điều kiện sống lành mạnh và giáo dục – chiều cao trung bình nam giới Đài Loan sinh thập niên 1880 là 162 centimet đã tăng thành 171 thập niên 1970 – nam giới Đài Loan đã cao hơn đồng trang lứa có cùng tổ tiên ở Phúc Kiến và Quảng Đông
Lượng tăng chiều cao lớn nhất, trung bình 1.1 centimet mỗi thập kỉ, là vào giai đoạn thuộc địa từ thập niên 1890 đến 1950 – con số không bằng những quốc gia đang phát triển không bị thuộc địa hoá khác cùng thời kỳ, nhưng đủ cho thấy cuộc sống có cải thiện cho người Hán đại lục ở Đài Loan
người Nhật Bản có bóc lột nhưng người Đài Loan chưa bao giờ bị đói kinh niên

Bất công
Dù người Nhật Bản chiếm Đài Loan làm thuộc địa có mang lợi ích, những bất bình đẳng cũng tồn tại
Giống Hàn Quốc thì Nhật Bản nhập khẩu vào Đài Loan một số lớn người Nhật Bản làm nhân viên bộ máy hành chính và chính quyền thuộc địa
người Nhật Bản chỉ chưa đến 6% dân số nhưng được làm những công việc tốt nhất: 20% việc quản lý, 30% việc thư ký [văn thư], 70% kỹ thuật viên trình độ và 73% nhân viên chính phủ là người Nhật Bản
lúc đầu việc nhập khẩu nhân lực là cần thiết, những người nhập cư Nhật Bản này có nỗ lực giúp tiêm nhiễm vào Đài Loan những nhân lực chất lượng cao, ví dụ những kỹ sư nông nghiệp Nhật Bản trong ngành nông nghiệp Đài Loan
nhưng dần dần thì người Đài Loan lại bị phân biệt chủng tộc trên chính quê nhà, do đó họ muốn được đối xử bình đẳng [Taiwanese matter?] như người Nhật Bản, thậm chí có khả năng đưa ra được một bộ luật tự quản.
Nhưng các nhà hoạt động cũng bối rối không biết cách nào để đạt mục tiêu. Các nhà hoạt động Đài Loan đã vận động các nhà làm chính sách nội ở Nhật Bản, trích dẫn ra lịch sử Nhật Bản và “lòng trung thành với Nhật Bản” để thuyết phục. Nhưng chính phủ thuộc địa thì kiên quyết phản đối mọi hình thức bộ luật tự quản
Giới tinh hoa Đài Loan đã làm xiếc, một mặt thì phần lớn tài sản và vị thế họ có được nhờ hệ thống tư bản Nhật Bản cho nên họ khéo léo vận động để gia tăng can dự vào hệ thống đó, nhưng không bao giờ hoài nghi
Giới tinh hoa ấy, do đó, phần lớn đã thất bại và mở đường cho những nỗ lực cấp tiến hơn từ phe cánh tả, những kẻ xuất thân nghèo hèn hơn, tìm cách lật đổ hệ thống thuộc địa. Chính phủ thuộc địa trấn áp không nương tay những nỗ lực ấy.

Thất bại của chủ nghĩa thực dân
Cuối cùng, phải đến khi Nhật Bản thua thế chiến 2 thì chiếm đóng thuộc địa mới chấm dứt. Nhưng người bản địa Đài Loan cũng không đạt được kỳ vọng tự quản sau thế chiến vì quốc dân đảng đổ về
Nhật Bản để lại “món quà” cuối cùng cho đảo Đài Loan: đất, các ngành công nghiệp và tài sản khác
Chủ nghĩa quốc gia [quốc dân đảng] trỗi dậy, họ đã quốc hữu hoá những doanh nghiệp công nghiệp Nhật Bản: nhà máy chế biến đường, tập đoàn độc quyền muối và tập đoàn độc quyền thuốc lá/rượu

người Nhật Bản bỏ đi, bán tháo số tài sản hơn 30 tỷ Đài tệ cho người Đài Loan với giá rẻ mạt, một số thương vụ đã tạo nên những phú ông mới
Lin Tizao của công ty thép Tatung đã mua hơn 50 nhà xưởng và lập tức thành một trong những người giàu nhất Đài Loan
Những công ty quỹ holding Nhật Bản cũng can dự vào một loạt cải cách ruộng đất lớn đã tăng tốc sản lượng nông nghiệp và đặt nền móng cho công nghiệp hoá Đài Loan

Cải cách ruộng đất
Trong khi người Nhật Bản đã có vài cải cách tình hình sở hữu bất động sản, họ chưa bao giờ bãi bỏ việc thuê nhà. Dần dần chủ đất được giàu lên và giàu lên nhờ giá thuê nhà cao, thực tiễn cho thuê theo giá bóc lột và tiếp quản bất động sản
Nông dân làm việc trên những cánh đồng mà họ không sở hữu. Chỉ 10% số chủ đất đã sở hữu 60% số đất canh tác. Cuối thế chiến 2, bạo loạn nông thôn bắt đầu gây nhức nhối
Khi quốc dân đảng cập bến, chế độ mới đã thi hành một loạt biện pháp cải cách ruộng đất để xây dựng một tầng lớp ủng hộ chính trị và phô diễn một đường lối phát triển khác với chủ nghĩa cộng sản
Được các nhà kinh tế Hoa Kỳ ủng hộ và hướng dẫn, biện pháp cải cách ruộng đất đã diễn ra 3 giai đoạn
Giai đoạn 1 năm 1949 bộ luật đã quy định giá trần thuê đất lên 37.5% sản lượng nông sản
Giai đoạn 2 năm 1951 chính phủ trực tiếp chào bán quỹ đất công cho công chúng, phần lớn quỹ đất công ấy là mua lại từ cựu thực dân Nhật Bản, mọi thường dân Đài Loan đều có thể mua
Năm 1948, 1951 và 1952 gần 100 000 gia đình Đài Loan đã mua một mảnh đất ruộng. Nhiều mảnh rất nhỏ nhưng nhiều thương vụ như thế đã kích hoạt cú tụt giá bất động sản và giúp chuẩn bị cho những chủ đất bản xứ cho giai đoạn kế
Giai đoạn 3 chương trình đất cho dân cày
Năm 1953 quốc dân đảng tịch thu tất cả đất phụ trội của những chủ đất có hơn 3 hecta để bán-gần-như-miễn-phí cho người thuê
13% tổng sản phẩm quốc nội Đài Loan đã được chuyển tay từ nhóm người này sang nhóm kia, với 143 nghìn hecta đất được chuyển qua tay 195 000 chủ mới – một cải cách vô tiền khoáng hậu
Năm 1970 đã có 78% nông dân Đài Loan sở hữu đất riêng

Tất cả cùng có lợi
Chủ đất được bồi thường bằng trái phiếu và chứng khoán của các doanh nghiệp sở hữu nhà nước mới được cổ phần hoá, những doanh nghiệp mà quốc dân đảng tịch thu từ thực dân Nhật Bản tháo chạy
Giới tinh hoa bản địa Đài Loan chuyển từ chỉ là chủ đất đơn thuần thu tiền thuê nhà sang những nhà đầu tư có cổ phần trong các doanh nghiệp Đài Loan
Nông dân cũng được sở hữu đất họ canh tác, rõ ràng sẽ nỗ lực hơn khi được làm cho chính mình
Năng suất lúa tăng và nông nghiệp tiến bộ thêm những nông sản giá trị như măng tây, nấm và chuối, tạo giá trị thặng dư có thể tái đầu tư vào tự động hoá và công nghiệp hoá.
Quốc dân đảng cũng có quyền nói rằng cách họ tiếp cận cải cách ruộng đất là ưu việt hơn cộng sản. Thành công trong chính sách cải cách ruộng đất đã củng cố vị thế cai trị của những người đại lục [quốc dân đảng] ở Đài Loan để họ tiếp tục điều hành đảo nhiều thập kỷ sau ấy
Vậy là tất cả các bên can dự đều có lợi, ngoài trừ [có lẽ] những người Nhật Bản phải tay trắng nhảy tàu trở về nước

Kết
Ngày nay quan hệ Nhật Bản Đài Loan khá nồng ấm nếu so với cựu thuộc địa Hàn Quốc
Cố tổng thống Lý Đăng Huy đặc biệt hâm mộ [Nhật Bản] mặc cho các đồng chí quốc dân đảng của ông có sửng sốt, ngài Lý chết năm 2020 người Nhật Bản đã gửi phái đoàn đến chia buồn
Phần lớn hạ tầng người Nhật Bản xây dựng cho kinh tế Đài Loan vẫn còn, văn hoá cũng chịu ảnh hưởng, người Đài bị miêu tả là đặc điểm trộn lẫn người Trung Quốc với người Nhật Bản
Nhìn chung Đài Loan ngày nay không tiêu cực về giai đoạn Nhật Bản đô hộ, mặc dù vẫn còn những vấn đề nữ quyền không thấy thoải mái ở Đài Loan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét