30 Tháng Ba 2023
Shinto (神道) là tôn giáo bản xứ của người Nhật, đã ra đời và phát triển rất lâu ở Nhật Bản và ăn sâu vào tiềm thức cũng như trái tim của người dân. Thần đạo có mối quan hệ rất mật thiết với địa lý và lịch sử của Nhật Bản, chính vì vậy nó có nhiều điểm tương đồng với tính cách của người Nhật. Đây là tôn giáo đã định hình văn hóa Nhật Bản cũng như được chính nền văn hóa Nhật Bản định hình. (từ giờ xin được gọi Shinto là Thần đạo để tiện cho bạn đọc theo dõi)
người châu Á theo đạo truyền thống thường có thái độ khoan dung và cùng lúc bao gồm nhiều đức tin khác nhau; nói cách khác, con người có thể tin vào và thực hành nhiều tôn giáo khác nhau. Họ không cảm thấy có gì là mâu thuẫn khi vừa theo Thần đạo, vừa theo một đạo khác – thường là Đạo Phật. Trong số 128 triệu dân Nhật Bản thì có 107 triệu xác nhận theo Thần đạo và 89 triệu người theo Đạo Phật ( theo thống kê của Tổng cục văn hóa Nhật Bản – 2006). Theo đó thì gần như tất cả người dân Nhật Bản đều theo đạo và những người theo Thần đạo có vẻ chiếm tỉ lệ nhiều hơn. Số còn lại nhiều người thực hành theo các “Tôn giáo mới”, những tôn giáo du mới du nhập vào Nhật Bản từ thế kỉ 19, bao gồm Đạo Thiên Chúa (3 triệu người), Đạo Hồi (120 000 người) và Do Thái Giáo (2000 người)
Thần đạo đã gắn liền với Đạo Phật từ hàng thế kỉ, thậm chí còn chia sẻ chung những đền chùa. Người Nhật có câu ” Sinh theo Thần, Chết theo Phật”, cho thấy đức tin của họ vào cả 2 tôn giáo
phần 1: Thần đạo là gì?
Thần đạo, chữ Hán là 神道, nghĩa là “con đường của Thần” (kami no michi). Kami (神) là các linh hồn hay vị thần hiện diện ở khắp mọi nơi. Thần đạo vẫn chưa có một cái tên chính thức cho đến khi Đạo Phật (con đường của Đức Phật) du nhập vào Nhật Bản vào thế kỉ thứ 6 và mọi người thấy cần đặt tên cho Thần đạo để phân biệt. Trước đó, người Nhật chỉ đơn giản làm theo các lễ nghi và đức tin mà họ coi là hiển nhiên trong thế giới mà họ sinh sống
Thần và linh hồn
Đạo Thiên Chúa, Đạo Hồi hay Do Thái Giáo, những tôn giáo chỉ tin vào một vị thần tối cao. Thần đạo theo lối “đa thần giáo” – nghĩa là có rất nhiều các vị thần. Chữ Shin(神)chỉ nhằm phân biệt giữa con người với những linh hồn/ thần linh mà con người tin vào, chứ không nhằm chỉ một vị thần cụ thể nào. Một số linh hồn trong Thần đạo, ví dụ như Thần Mặt trời Amaterasu, được coi là Thần nhưng hầu hết số còn lại là các linh hồn cùng chung sống với con người. Thế giới trong Thần đạo là một dòng chảy liên tục của sự sáng tạo, từ những linh hồn sống cao tít trên Thiên đàng đến những linh hồn trú ngụ trong cây, đá, bụi và tất cả những gì xung quanh. Tất cả mọi vật đều có linh hồn và có tiếng nói của riêng mình. Con người chẳng qua cũng chỉ là một phần trong dòng chảy đó
Kami, linh hồn, có ở mọi nơi và bất cứ cái gì hiện hữu đều có thể là kami (Từ giờ xin gọi kami là thần để bạn đọc tiện theo dõi). Những vật tự nhiên như đá, cây cối, núi sông, thác nước, động vật, sấm chớp… tất cả đều có thể là kami, nhất là với những vật hoặc hiện tượng có phần kì lạ và nổi bật. Không phải tất cả các vật tự nhiên đều là thần, nhưng Thần đạo khuyến khích việc tô trọng những vật tự nhiên, vì ngay cả những vật bình thường nhất cũng có thể có các linh hồn trú ngụ bên trong
Không rõ ai tạo ra Thần đạo và cũng không có những hình tượng trung tâm như Muhammad, Đức Phật hay Chúa Jesus
1. Cầu nguyện và Thanh tẩy
Một điểm khác nữa của Thần đạo so với các tôn giáo khác là nó không có kinh thư hay Kinh thánh như Kinh thánh Cựu Ước, Kinh Torah, Guru Granth Sahib hay Quran. Nó chỉ có những câu cầu nguyện, những câu khấn cổ là norito hay norii, đã được truyền miệng từ hàng thế kỉ trước khi được ghi lại lên giấy. Một trong những đức tin của Thần đạo là những từ ngữ lời hay ý đẹp nếu được nói ra đúng lúc đúng chỗ, thì sẽ có thể đem về những kết quả tốt. Những câu cầu nguyện vì vậy thường được các thần chủ (người trông coi đền thờ Thần đạo và hay đứng ra thực hiện các nghi thức trong các buổi lễ) học thuộc lòng và gửi đến các thần tại các đền thờ Thần đạo trong các nghi thức và các lễ hội hằng năm (matsuri)
dù không có những câu giáo điều, những điều buộc người theo đạo phải trung thành làm theo, Thần đạo đem đến cho những theo đạo những giá trị, chuẩn mực và cách nghĩ mà dần dần thấm sâu vào cuộc sống của người Nhật. Thần đạo đề cao sự sạch sẽ và thanh tẩy. Những nơi đặt các ngôi đền thờ Thần đạo thường có dòng nước chảy qua, như sông hay suối, những người theo đạo sẽ dùng nước ở đó để rửa tay và rửa miệng trước khi đến đền thờ. Lý tưởng của Thần đạo là hướng đến sự tinh khiết và thành thật, những đức tính làm hài lòng các thần
Gáo nước dùng để thanh tẩy tay và miệng trước khi vào thăm đền
2. Nhật Bản
Bản thân đất nước Nhật Bản là một nhân tố quan trọng trong Thần đạo. Mặc dù người ta không ngay lặp tức tôn thờ vùng đất mình sinh ra, nhưng qua năm tháng con người học được cách tôn trọng và yêu quý vùng đất mình sinh sống. Nhật Bản là một đất nước có thiên nhiên tươi đẹp và trù phú, từ những ngọn núi lửa đỉnh phủ tuyết trắng, những rặng núi cao sừng sững cho đến những con vịnh, những bờ biển yên bình. Mọi thứ từ cây cối, đá sỏi đến những con lạch, những thác nước, cùng với những sinh vật sống cùng hòa quyện, giống như một chốn linh thiêng, một thứ thiên nhiên có hồn
Những tập tục thực hành Thần đạo bắt đầu từ trong những gia đình làm nông hoặc những làng chài, nơi tín ngưỡng đã có từ lâu và gắn liền với vùng đất đó. Chính vì vậy, Thần đạo chưa bao giờ vượt ra khỏi lãnh thổ Nhật Bản, và Nhật Hoàng luôn được coi là người gìn giữ đức tin vào Thần đạo. Những người theo Thần đạo ở ngoài lãnh thổ Nhật Bản hầu hết là những người sinh ra ở Nhật Bản, mặc dù đã xa quê hương nhưng vẫn gìn giữ và làm theo tôn giáo chính cống của mình. Không như Đạo Thiên chúa hay Đạo Hồi, luôn đi thao giảng và truyền bá tôn giáo của mình, Thần đạo chính tông không hề cử các đại sứ đi rao giảng đức tin hay cố gắng cải đạo người khác, mặc dù ngày nay cũng có những nhóm nhỏ theo Thần đạo khuyến khích người khác cải theo Thần Đạo.
Như một quy luật, người ta không gia nhập Thần đạo theo bất cứ lễ nghi chính thức nào. Người ta sinh ra và lớn lên cùng nó, học cách tự nhận biết theo Thần đạo thì phải như thế nào, cũng giống cách họ nhìn nhận ra gia đình mình, thành phố và vùng đất mình đang sống, đất nước mình sinh ra. Trong suốt cuộc đời, dù họ có coi mình theo đạo hay không đi chăng nữa, những người này quan sát các lễ hội Thần đạo và sẽ tự mình ý thức thực hành Thần đạo.
3.Sự đa dạng của Thần đạo
Trong suốt lịch sử của Nhật Bản, Thần đạo đã liên tục thay đổi để đáp ứng điều kiện và nhu cầu của những người theo đạo. Khi tôn giáo của Trung Quốc đến Nhật Bản (khoảng năm 200 SCN), Thần đạo có kết hợp một số yếu tố của Đạo giáo và Nho giáo. Từ thế kỉ thứ 6 đến giữa thế kỉ 19, Thần đạo có liên hệ mật thiết với Đạo Phật, đến nỗi nó gần như biến mất trước Đạo Phật. Thần đạo luôn thay đổi và thích nghi tùy vào điều kiện hiện tại và thời gian. Nó vẫn tiếp tục tồn tại đến ngày nay.
Thần đạo quốc gia (国家神道)
Sau hàng thập kỉ bị cái bóng của Phật giáo che phủ, Thần đạo hồi sinh trở lại như một tôn giáo riêng biệt vào cuối những năm 1800 dưới thời Thiên hoàng Minh Trị. Ông khuyến khích theo Thần đạo và sử dụng ngân sách Chính phủ để ủng hộ cho các đền thờ Thần đạo và những người làm lễ, chăm sóc ngôi đền. Mô hình Thần đạo phát triển dưới thời Minh Trị được gọi là Thần đạo quốc gia. Nó nhấn mạnh vào lòng yêu nước và trung thành với Thiên hoàng, như một đấng tối cao đại diện cho các vị Thần. Thần đạo quốc gia kéo dài đến cuối Thế chiến thứ II năm 1945, nước Nhật thua trận đầu hàng và phải bãi bỏ Thần đạo này dưới sức ép của quân Đồng Minh.
Thần đạo phái (教派神道)
Trong khi Thần đạo quốc gia phát triển mạnh mẽ đến đời sống dưới thời Minh Trị, thì sự phục hưng của tôn giáo cũng diễn ra trong những tầng lớp những người nông dân. Những người này bắt đầu đi theo những Giáo chủ, những người được coi là vô cùng thông thái khi đã theo học và tiếp thu Thần đạo, Đạo Phật và những tôn giáo bản địa khác. Những Giáo chủ này, được coi là các vị thần sống và những tôn giáo mới mà họ sáng lập ra thu hút rất nhiều người tin theo. Mặc dù những tôn giáo mới này có nhiều nét khác biệt với Thần đạo truyền thống, nhưng vì những điểm tương đồng rất nhiều nên những tôn giáo này còn được gọi là Thần đạo phái ( các giáo phái khác nhau của Thần đạo). Trong số 13 giáo phái đã được nhân diện thì Tenrikyo (天理教) được coi là lớn nhất và nổi tiếng nhất, ngày nay vẫn thu hút người mới tin theo
đền Ise – Ngôi đền linh thiêng nhất Nhật Bản
Thần đạo dân gian (民俗神道)
Nhiều người thực hiện các nghi lễ Thần đạo mà không cần lệ thuộc vào ngôi đền nào trong hệ thống Jinja Honcho. Họ thờ cúng tổ tiên, cầu khấn các vị thần ở địa phương, trong nhà hoặc ngoài đồng ruộng, ở các đền miếu nhỏ. Hình thức này được gọi là Thần đạo dân gian. Chính hình thức này mang những phong tục của Thần đạo từ xa xưa, từ đó mà hình thành nên những tập tục và đức tin của Thần đạo ngày nay
Trên hết, Thần đạo đề cao yếu tố gia đình. Rất nhiều người thực hành Thần đạo tại nhà, trong nhà luôn luôn có ban thờ hoặc miếu nhỏ thờ một vị thần nào đó và hằng ngày cầu nguyện cũng như thực hiện các nghi thức đơn giản. Trong các lễ hội, thần của các ngôi đền tại địa phương được đặt lên những chiếc kiệu và đi diễu hành khắp thị trấn để đến thăm những nơi được phù hộ. Đây cũng là dịp để người dân trong vùng cùng nhau ăn mừng, liên hoan
Đền thờ Thần đạo
Các đền thờ Thần đạo mọc lên như nấm sau khi Thế chiến thứ II kết thúc năm 1945, Hiến pháp Nhật Bản cho phép tự do tôn giáo tín ngưỡng và ngăn cản Chính phủ can thiệp ủng hộ Thần đạo như Quốc giáo, Cơ quan lo việc tôn giáo và khuyến khích Thần đạo phát triển cũng bị giải thể
Tuy nhiên, vẫn có hơn 80.000 Đền thờ Thần đạo được xây dựng trải khắp lãnh thổ Nhật Bản, và sau khi đất nước bại trận trong Chiến tranh, người dân có nhu cầu bày tỏ đức tin cũng như cầu nguyện nhiều hơn. Với mục đích nhằm duy trì các đền thờ này, các Thần chủ và Giáo chủ các giáo phái của Thần đạo cùng bắt tay nhau và lập ra Jinja Honcho (神社本庁)- Hiệp hội quản lý các đền thờ Thần, ngày nay vẫn đứng ra lên lịch cho các lễ hội và bảo tồn các đền thờ Thần
4. Thần đạo trong đời sống người Nhật
Thần đạo nhấn mạnh và đề cao sự thuần khiết và ngay thẳng. Trẻ con được dạy phải lắng nghe trái tim mình; kính trọng tổ tiên, bậc trên dạy dỗ mình và quý trọng thế giới tự nhiên; tôn kính các thần – những linh hồn đã nuôi nấng và phù hộ cho ta. Đó là tinh thần của Thần đạo
Thần đạo trong Công nghiệp và Giáo dục
Bắt nguồn từ nông thôn, từ thiên nhiên nhưng Thần đạo cũng đã thích nghi với những con người trong xã hội hiện đại. Một số công ty mộ đạo còn xây dựng các đền thờ Thần cho công ty. Các công ty còn thỉnh cầu các thần ở ngoài đồng hoặc gần suối để cầu may mắn và làm ăn phát đạt. Nhiều ngôi đền ở các thành phố lớn còn có một khu vực riêng để thực hiện các nghi lễ đặc biệt, ví dụ như lễ cầu may cho một loại ô tô mới của công ty. Các thần chủ đôi khi còn có mặt để làm lễ trong các lễ động thổ cho việc xây dựng các tòa nhà mới. Vai trò của Thần đạo chỉ đơn giản mang tính hình thức và cầu an. Nó không có vai trò gì trong giáo dục hay vận động công chúng
Thiên nhiên và Thần
Ở một đất nước ông nghiệp hóa mạnh mẽ như Nhật Bản, Thần đạo đóng vai trò liên kết con người với thiên nhiên, quý trọng thiên nhiên. Ngành du lịch nhờ thế mà trở nên phát đạt nhờ việc dẫn các du khách đến thăm các đền thờ Thần đạo với xung quanh là những quang cảnh, di sản thiên nhiên gắn liền với câu chuyện về các vị thần.
Theo truyền thuyết, những hòn đảo tươi đẹp của Nhật Bản, những ngọn núi đỉnh phủ tuyết trắng xóa, những bãi cát dát vàng, những thác nước hùng vĩ và thảm thực vật phong phú, đều được tạo ra bởi các vị thần và rồi hóa thân vào các sự vật, hiện tượng và rồi sinh ra con người. Mặc dù một số người Nhật hiện đại miễn cưỡng chấp nhận các đức tin của Thần đạo, nhưng họ vẫn bày tỏ sự kính trọng đối với các thần đã tạo nên thiên nhiên và con người
phần 2: Nguồn gốc
Đến nay vẫn khó có thể biết được, những người đầu tiên di cư đến quần đảo Nhật Bản để làm nhà thực chất đến từ đâu, có thể là từ Biển phía Nam, từ Trung Quốc hoặc Hàn Quốc,… chỉ biết rằng nơi đầu tiên mà họ đặt chân đến là vùng Yamato, ở phía nam tỉnh Nara, và đây cũng chính là cái nôi của văn hóa Nhật Bản. Tuy vậy, trước khi những người này di cư đến đảo Nhật Bản, thì trên đảo đã tồn tại những người bản địa rồi, và đó là người Ainu. Người Ainu không chào đón những vị khách mới cùng chung sống, và đó là lí do họ vẫn sống tách biệt với người Nhật cổ, thậm chí đến tận ngày nay
Những người Nhật cổ cùng chung sống trên một vùng đất, sinh con đẻ cái và kết hôn, những người có chung huyết thống và có quan hệ hôn nhân tụ tập lại hình thành nên các uji – gia tộc (氏). Họ thường tập trung quây quần trong những dịp lễ đặc biệt như sinh đẻ, hiếu hỉ, những lễ hội quanh năm như lễ hội gieo hạt vào mùa xuân hoặc lễ thu hoạch vào mùa thu. Trải qua những hoạt động làm nông và tác động từ môi trường tự nhiên, Thần đạo dần dần được hình thành
Khởi đầu của Thần đạo
các gia tộc luôn tin rằng các thần linh trong tự nhiên sẽ cầu phúc cho con cái và mùa màng của họ, luôn tỏ ra tôn kính đối với các hiện tượng tự nhiên như mặt trời, gió, mưa và thủy triều. Thần đạo từ đó mà sinh ra, và nó được truyền qua các thế hệ trong gia đình, cũng như qua các thần chủ, những người đi cầu thần linh ban phúc. Những lễ hội Thần đạo đều dựa theo lịch nông vụ, đặc biệt là mùa xuân gieo hạt và mùa thu thu hoạch
mỗi làng, mỗi gia tộc lại có những vị thần của riêng mình, thường gắn với đặc trưng tự nhiên tưng vùng. Sống gần gũi với thiên nhiên, họ luôn coi rằng Thần linh luôn tồn tại, khi ấy chẳng có gì tách biệt giữa tôn giáo với văn hóa. Mọi người luôn công nhận sự tồn tại của các thần linh, khi họ chứng kiến những chiếc cổ thụ, những khu rừng rậm rạp, những ngọn núi, thác nước hùng vĩ,… Họ luôn tôn kính và tỏ ra sùng bái những sự vật, hiện tượng mà họ thấy bất thường hoặc kì vĩ… và họ tin rằng có thần linh trong những sự vật hiện tượng đó, thần lửa, thần gió, thần mưa, thần sấm, thần suối, thần sông, thần núi, thần gạo, rồi thì thần đá, thần đường, thần biển, thần nhà, thần bếp,… Họ tin rằng thần linh có mặt ở khắp mọi nơi
Norito
Thần đạo thuở sơ khai không có các thần chủ (tương đương với các thầy tu). Những người đứng đầu gia tộc cũng đồng thời trở thành những thần chủ. Nhiệm vụ của ông ta, với tư cách là người đứng đầu gia tộc sẽ có vai trò là đại diện của Thần và và là người sẽ truyền những lời chúc của gia tộc tới các vị thần. Những người theo Thần đạo tin tằng những lời nói hay, đẹp, chỉn chu sẽ làm hài lòng các vị thần, qua đó họ tin mình sẽ được các thần phù hộ cho sức khỏe và thịnh vượng
Norito là những lời lẽ và lời khấn cổ, chủ yếu được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, về sau vào khoảng thế kỉ thứ 8, giấy được dùng làm công cụ để ghi chép lại những norito. Với niềm tin rằng những câu chữ trong norito có chứa sức mạnh tâm linh nên nó được truyền lại gần như nguyên bản, không có thay đổi gì. Có rất nhiều các norito khác nhau cầu cho vụ lúa bội thu, bởi gạo vẫn luôn là nông sản chính của Nhật Bản
Đặc điểm của Thần đạo thuở ban đầu
Các nghi lễ thần đạo trong năm được tổ chức dựa theo vụ mùa làm nông quanh năm. Mỗi nơi, mỗi làng tổ chức có một chút khác nhau nhưng về tổng thể lễ hội là dịp để người dân quần tụ và cùng nhau cầu chúc mưa thuậ gió hòa.Trong lễ hội, người ta hay cầu cho những sai sót, tội lỗi sẽ được bỏ qua và lấy đi, để họ được thanh tẩy, qua đó dễ dàng cảm tạ các thần linh và cầu phúc cho gia đình, đất nước mình
ngoài các vị thần trên thiên giới, các thổ thần – thần địa phương, các vị thần trong tự nhiên, những người xuất chúng, hay trong hoàng thất cũng được coi là thần,.. tựu chung lại đã lên đến khoảng 8 triệu thần linh các loại. Nhiều thần là những thành hoàng, những vị thần bảo hộ cho một khu vực hoặc một gia đình nhất định, và không được biết đến rộng rãi ở bên ngoài. Mỗi ngôi làng đều có những ngôi đền dành cho các gia tộc trong làng đến thờ phụng. Những thổ thần có thể gắn với những địa danh của địa phương như thác nước, núi, sông…
Những chốn linh thiêng
Ban đầu vẫn chưa xuất hiện các đền chùa. Mọi người hay đến những nơi trong tự nhiên mà họ coi là có thần để cầu phúc, như dưới chân thác, đỉnh núi, dưới tán cây, trên bờ biển hoặc bên cạnh những hòn đá thiêng,… và họ bện những sợi thừng bằng rơm, quấn/ đặt cạnh những nơi đó để minh chứng cho sự tồn tại của các thần. Khi mới đầu, người ta thường sử dụng những vật như gương, trang sức, thanh kiếm để làm nơi cho thần linh trú ngụ. Về sau họ xây dựng hững ngôi đền miếu nhỏ để làm nơi ở của thần linh, và hay lui tới để cầu ước. Các đền thờ Thần không phải là nơi để người dân tụ tập cầu nguyện, đó là nhà của riêng các Thần, những nghi lễ đông người được tổ chức bên ngoài ngôi đền, chứ không phải bên trong
Ảnh hưởng của các gia tộc
các gia tộc, theo thời gian ngày càng mở rộng và lớn mạnh. Các gia tộc nhỏ hợp lại với nhau (qua hôn nhân) và lập nên các gia tộc hùng mạnh. Khi một gia tộc này thu nạp thêm một gia tộc khác, Thần bảo hộ của làng đó sẽ trở thành Thần bảo hộ chung cho gia tộc mới hình thành. Nữ thần mặt trời Amaterasu được coi là Thần bảo hộ trực tiếp cho gia tộc Yamato, ơi sinh ra Hoàng gia Nhật Bản. Gia tộc này ngày càng lớn mạnh và có uy tín và thần bảo hộ của ho Amaterasu nghiễm nhiên trở thành vị thần đứng đầu của Thần đạo Nhật Bản
Sự du nhập của nền văn minh Trung Hoa
Không xa về phía Tây của Nhật Bản là Trung Quốc, quốc gia đã có nền văn hiến từ rất lâu đời. Vào thời nhà Hán (206 TCN – 220 SCN ), Trung Quốc đã xâm chiếm và thống trị Triều Tiên, đưa Trung Quốc đến gần hơn với Nhật Bản. Khoảng năm 57 SCN, các học giả và thương nhân Trung Hoa đã đến Nhật Bản thường xuyên hơn qua những lời mời của Triều đình Nhật Bản, mang nền văn hóa, văn minh Trung Hoa du nhập vào đây, phát triển cực kì mạnh mẽ vào khoảng năm 200 sau công nguyên
Nhật Bản thời bấy giờ vẫn còn trong mung muội. Vẫn chưa có chữ viết, nên các ghi chép về văn thơ đều không có, cũng không hề có lấy những họa phẩm nào đáng kể và nhất là chưa có thể chế quân chủ hoàn thiện, những thứ mà người Trung Quốc đã gây dựng được từ hơn 1000 năm
người Trung Hoa đem chữ viết, là một trong những tiến bộ văn hóa quan trọng nhất, đến Nhật Bản. Dần dần, Nhật Bản tiếp nhận hệ thống chữ viết của Trung Hoa và biến đổi cho hợp với ngôn ngữ của họ. Tiến bộ này giúp họ có thể ghi lại những lời truyền miệng, những câu chuyện từ xa xưa, lịch sử của đất nước và tất nhiên là cả những điều cơ bản đã làm nên Thần đạo. Tuy nhiên không chỉ có chữ viết, người Trung Hoa còn mang đến Nhật Bản văn hóa của mình, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa nước Nhật qua Nho giáo và Đạo giáo. Mỗi tôn giáo này lại ảnh hưởng đến Thần đạo theo các cách khác nhau
Nho giáo
tư tưởng của Nho giáo có ảnh hưởng rất sâu sắc đến người dân Nhật Bản. Thuyết “tam cương ngũ thường” nổi tiếng của Khồng Tử, dạy cách ứng xử giữa con người với nhau, kính trọng tổ tiên, tuân theo phép tắc địa vị… những điều này đã khiến triều đình Nhật Bản quan tâm. Nho giáo bảo rằng bất kể thứ gì trong tự nhiên này đều có vị trí nhất định của nó. Mỗi người đều có vị trí riêng của mình trong các mỗi quan hệ: trong gia đình (bố mẹ – con cái, vợ – chồng, anh – em) và ngoài gia đình ( bạn bè, kẻ thống trị – kẻ bị trị), và phải sống sao cho phù hợp với địa vị đó
người Nhật nhận thấy những điều răn dạy trong Nho giáo có nhiều điểm tương đồng với Thần đạo. Trung thực, công bằng, hòa hảo và kính trọng tổ tiên đều là những lý tưởng của Thần đạo. Nho giáo cũng rất nhấn mạnh tới mối quan hệ trong gia đình và giúp củng cố địa vị của những người có quyền như Hoàng đế hay Lãnh chúa. Người Nhật tiếp thu rất nhiều điều dạy của Nho giáo, trong khi đó vẫn duy trì đức tin vào Thần linh và đến cầu nguyện ở các đền thờ Thần
Đạo giáo
dù Nho giáo mới là tôn giáo chính và mang đậm nét văn hóa Trung Hoa, thì Đạo giáo lại phát triển mạnh mẽ trong tầng lớp lao động. Đạo giáo cũng dần được du nhập vào Nhật Bản giống như cách mà Nho giáo đã làm. Đạo giáo nhấn mạnh tới sự hòa hợp của con người với dòng chảy của vũ trụ (âm dương ngũ hành). Cũng giống như Thần đạo, Đạo giáo cũng đề cao vai trò của thiên nhiên. Đạo giáo tuy không có những ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến người Nhật như Nho giáo nhưng nó cũng tác động đến Thần đạo một cách gián tiếp
Đạo giáo có thể nói là phát triển hơn rất nhiều so với Thần đạo, nó có nhiều nghi thức và nghi lễ hơn Thần đạo. Cũng giống như Thần đạo, Đạo giáo cũng có nhiều Thần, đại diện cho nhiều sức mạnh của thiên nhiên. Đạo giáo cũng quan tâm đến hệ thống lịch, có phân tích ngày nào tốt ngày nào xấu, và hệ thống lịch đó cũng đươc Thần đạo học tập theo
Những người theo Đạo giáo có những cách thức giúp họ giải mã được các dấu hiệu, đoán biết tương lai và chọn lựa những nơi hợp phong thủy để xây dựng đền chùa, điều đó có tác động đến Thần đạo. Khoảng thế kỉ thứ 8, triều đình Nhật Bản đã lập nên một ban chuyên về trách về bói toán – dự đoán tương lai, có vai trò ấn định những ngày tốt cho những dịp lễ diễn ra và tiên đoán những hiện tượng tự nhiên sắp xảy ra (mưa, lụt, hạn,…)
Phật giáo
Chính quyền Nhật Bản áp dụng triệt để Nho giáo và sử dụng Nho giáo để trị nước thì Phật giáo, cùng thời điểm đó, cũng du nhập vào Nhật Bản và nhanh chóng trở thành tôn giáo du nhập có ảnh hưởng nhất tới Nhật Bản
Phật giáo chính thức được truyền bá vào Nhật vào khoảng năm 552 SCN, mặc dù chắc chắn trước đó có không ít nhà sư đã đến đây. Một trong những hình ảnh đầu tiên về nhà sư cửa Phật của người Nhật là khi Vua Triều Tiên cử một phái đoàn sang Nhật Bản, cầu xin Yamato sự trợ giúp về binh lực. Phái đoàn đều là các nhà sư trong áo cà sa đỏ vàng, liên tục gõ mõ, mang theo những lễ vật như ô, tượng Phật bằng vàng,…
Phật giáo ngay lặp tức có ảnh hưởng to lớn đến người dân Nhật Bản. Phật giáo lúc đó đã rất phát triển, có những triết lý sâu sắc và những nghi lễ đã gần như hoàn thiện. Quang cảnh, kiến trúc Phật giáo cũng như những tư tưởng đạo đức tiến bộ của nó đã thu hút cả dân đen và những người quyền lực, Đạo phật nhanh chóng lan truyền đi khắp đất nước. Tư tưởng triết học của Phật giáo, rũ bỏ những khổ đau nơi trần thế để đến với chốn yên bình nơi cửa Phật cũng tác động lớn đến tâm tư của nhiều người dân Nhật Bản
Mặc dù mới du nhập vào Nhật Bản nhưng Phật giáo có nhiều đặc điểm tương đồng với Thần đạo. Phật giáo cũng có nhiều thần linh và hệ tư tưởng khoan dung, hướng thiện. Phật giáo còn đem đến một hệ thống các lời răn của Đức Phật về nghiệp chướng, luân hồi, niết bàn và con đường giải thoát khỏi khổ ải ( Tứ diệu đế, Bát chính đạo). Việc Phật giáo đề cập đến cuộc sống sau cái chết là điều mới đối với Thần đạo mà họ không tìm thấy ở Nho giáo, vốn nhấn mạnh đến quan hệ giữa người với người trong xã hội và quan hệ vua quân
Đạo Phật đem đến một tư tưởng mới về cái chết, đó là đầu thai, trong khi Thần đạo lại chấp nhận rằng cái chết là kết thúc vĩnh viễn cho sự tồn tại. Thần đạo quan niệm những người chết phải thanh tẩy cơ thể đễ rũ bỏ mùi thối của tử thi. Nếu như người trong hoàng tộc chết, họ có thể trở thành thần, nhưng sẽ không có lối thoát đến nơi nào tốt đẹp hơn, cụ thể là thiên đàng hoặc được đầu thai. Tuy nhiên, đạo Phật lại có, và nó còn đặt ra những nghi thức tang lễ nhằm an ủi người chết, điều mà Thần đạo không có. Thần đạo đã tiếp nhận những tư tưởng này của Phật giáo, cùng một số nghi thức và tri thức của Đạo Phật
Thái tử Shotoku và Cải cách Taika
Gia tộc Yamato ngày càng lớn mạnh, càng thu nạp nhiều gia tộc thì mâu thuẫn xích mích càng lớn, chiến tranh giữa các hào tộc với vương tộc Yamato xảy ra càng nhiều. Vào cuối thế kỉ thứ 6, sau khi giành thắng lợi trong một số cuộc phân tranh như vậy, thì Nữ hoàng Suiko, thái tử Shotoku đã xây dựng được một nền tảng chính trị mới, xóa bỏ vương quyền Yamato. Khảng năm 600 SCN, xung đột nội bộ đã dẫn đến sự phế truất ngai vàng của Nữ hoàng Suiko, cháu trai của bà là Shotoku trở thành người kế vị nhưng vẫn trị vị đất nước dưới tên của bà. Dưới thời Shotoku, văn hóa tôn giáo Nhật Bản và Trung Quốc đã pha trộn vào nhau một cách rất tài tình
Thái tử Shotoku đã tự tay lập nên hiến pháp 17 điều của Nhật Bản. Văn bản này, viết vào năm 609 kết hợp giữa tư tưởng Phật giáo với cấu trúc trị nước của Nho giáo. Văn bản này giống như một hệ thống các nền tảng đạo đức mà chính phủ tự thi hành. Năm 645, không lâu sau cái chết của Shotoku, Kotoku trở thành Thiên hoàng và thiết lập những thay đổi trong cách vận hành của chính phủ, còn được biết đến là Cải cách Taika, đưa Nhật Bản chuyển dần sang chế độ phong kiến thay cho chế độ thủ lĩnh bộ lạc như trước kia.
cải cách Taika củng cố quyền lực tập trung vào tay Thiên hoàng đồng thời phân cấp các gia tộc khác. Những hệ thống cấp bậc và luật lệ xã hội này chi phối cuộc sống của người dân Nhật Bản và vẫn còn ảnh hưởng đến tận ngày nay
Nho giáo và Thần đạo
Triều đình vận hành theo các tư tưởng của Nho giáo, nên các nhà Nho hưởng lợi lớn khi hợp tác với các quan chức triều đình, mà các quan chức này lại theo Thần đạo, Nho giáo và Thần đạo tồn tại hòa hợp với nhau trong xã hội đó. Nho giáo cung cấp hệ tư tưởng giáo dục, quản lý cho triều đình Thiên hoàng để trị nước, trong khi đó Thần đạo lại tạo ra một bức màn thần bí và đem đến những quyền lực vô hình cho Thiên hoàng. Chính quyền chính vì vậy cũng luôn hỗ trợ xây dựng và duy trì các đền thờ Thần
năm 673, với sự du nhập của giấy, Thiên hoàng Temmu yêu cầu cho ghi lại sử thi của Nhật Bản lại, vốn từ trước đến nay vẫn luôn truyền miệng. Thực chất, những văn bản đó đã củng cố nguồn gốc thần linh của Thiên hoàng, và việc ghi lại sẽ giúp củng cố quyền lực của các đời Thiên hoàng và tránh những câu chuyện đó bị thất lạc hay thay đổi. Năm 712 cuốn Kojiki ra đời, kể về truyền thuyết sinh ra đảo Nhật Bản và người dân Nhật Bản. Năm 720 cuốn Nihongi ra đời, kể lại truyền thuyết về sự ra đời của Thiên hoàng và những người kế tục
Kojiki và Nihongi đã chính thức chắp bút cho Thần đạo trở thành tôn giáo của Hoàng gia Nhật Bản và của người dân Nhật Bản, những ảnh hưởng của hệ tư tưởng Thần đạo đã ăn sâu vào tâm thức của người Nhật cho đến tận bây giờ
phần 3: Nghi thức
Đức tin của Thần đạo
Thần đạo không có kinh thánh như đạo Cơ đốc, cũng không có những lời giáo huấn và những giảng giải đạo lí như đạo Phật, Thần đạo đơn giản chỉ yêu cầu con người sống hợp với ý nguyện của các thần. Người Nhật tin rằng, chính vì họ cũng có nguồn gốc sâu xa từ các thần, vậy nên những cái gì đúng, những cái gì phải đạo, hợp ý thần đều có thể được tìm thấy bên trong trái tim của họ. Điều đó không có nghĩa là những ai theo Thần đạo đều sẽ không gặp rắc rối hay không làm điều xấu, tuy nhiên người ta cho rằng bản chất của họ không xấu xa, mà chỉ là con tim của họ lầm đường lạc lối nên mới gây ra những chuyện không tốt mà thôi
Sự thanh tẩy
Thần đạo nhấn mạnh rằng sự đơn giản tinh tế và sạch sẽ chính là những dấu hiệu cho thấy một tâm hồn sáng trong. Các thần yêu cầu người dân phải trong sạch cả về tâm và trí, và phải biết ơn các thần đã bảo vệ, ban phước cho họ. Làm cách nào để thể hiện với thần linh những điều trên còn tùy vào nhận thức của từng người. Lối sống làm hài lòng các thần, hợp ý các thần được rút ra từ các câu chuyện kể, các truyền thuyết, trong các câu khấn cổ (norito) và đặc biệt là từ sự giáo dục, nếp sống của gia đình
Ý thức cá nhân
Tự cá nhân ý thức được sự cần thiết thờ phụng các thần quan trọng hơn nhiều việc làm theo sách giáo điều, có lòng biết ơn các thần sẽ tự khắc biết mình phải làm gì để tỏ lòng thành. Người ta đi lễ, cầu nguyện khi bản thân thấy cần thiết. Để tỏ lòng biết ơn, cảm kích đến các thần, một số người thích tham gia các lễ hội, có người ngày nào cũng đi qua các đền, miếu đều dừng lại và thực hiện vài động tác đơn giản như cúi đầu, vỗ tay rồi chắp tay hay đơn giản là sắp xếp lại các vật cúng nếu chúng lộn xộn hoặc bị đổ
Thần đạo đề cao sự sạch sẽ – biểu tượng cho sự trong sạch, thuần khiết nên người ta trước khi làm lễ đều tắm rửa và mặc những bộ quần áo sạch sẽ, trước khi vào một ngôi đền, họ sẽ phải rửa tay và rửa miệng ở ngoài cổng đền (torii). Thường thì trên con đường đến ngôi đền luôn có suối, lạch nước nhỏ, nước từ đó được đưa đến một cái bồn nước bằng đá – tại đó người ta sẽ rửa tay và miệng
theo truyền thống, người ta sẽ để lại một vài đồng tiền lẻ hoặc đồ ăn, ví dụ như vài đồng xu, vài hạt gạo gói trong giấy, bánh gạo hoặc ít rượu sake để dâng lên các vị thần. Họ cũng thường viết các lời cầu nguyện của mình lên một phiếu giấy trắng và gắn chúng lên cây thần sasaki. Ở các đền thờ lớn còn có dịch vụ rút quẻ bói nữa. Cần biết rằng mấy đồng bạc lẻ hay đồ ăn bạn để lại đền thờ không phải là vật hiến tế mà nó chỉ đơn giản là bạn thể hiện sự biết ơn của mình với các thần. Trong thần đạo không có khái niệm hiến tế, người ta đến cầu nguyện bằng chính nhu cầu chính đáng của mình, các đồ vật để lại nhằm mong các thần sẽ giúp điều cầu nguyện của họ trở thành hiện thực
Thần chủ
Ngày xưa việc tế lễ được giao cho các tộc trưởng mỗi gia tộc, và cũng kiêm luôn làm thần chủ. Khi các gia tộc hợp nhất và mở rộng thành những khối lớn mạnh, sẽ nổi lên một gia tộc đứng đầu. Gia tộc này sẽ chọn một gia đình để đảm nhận mọi việc nghi thức cúng bái thần linh, việc tế lễ không được phổ cập và là công việc cha truyền con nối của gia đình đó và được coi là hậu duệ trực tiếp của các thần
hoàng gia Nhật Bản thời đầu giao việc này cho 4 gia đình. Một quản lý các nghi thức và các lễ, một gìn giữ các điện thờ và đóng vai trò liên lạc với các thần, một gia đình tìm hiểu về hành vi của các thần và một gia đình chuyên nhảy múa, ca hát làm vui các thần. Chỉ một vài nghi lễ (rất lớn, mang tầm vóc hoàng gia) là được thực hiện bởi Thiên hoàng, còn lại các nghi lễ và việc quản lí các đền thờ khác được giao lại cho 4 gia đình trên. Các thần chủ được phép kết hôn, và công việc tế lễ được truyền dạy từ đời này sang đời khác, cha truyền con nối
thập niên 1800, Thần đạo quốc gia ra đời, phá bỏ việc thần chủ cha truyền con nối, các thần chủ được chỉ định bởi chính phủ. Các đền thờ quan trọng ở các thành phố lớn được chỉ định giao cho các thần chủ có địa vị xã hội cao, các thần chủ khác sẽ quản lý các đền nhỏ ở địa phương.
nay, các thần chủ là một cộng đồng riêng biệt. Trừ những người quản lý các đền thờ lớn, còn lại đều đang làm các công việc khác. Họ có thể là giáo viên, nhân viên công chức hay doanh nhân. Họ kết hôn, lập gia đình và làm nhà tại những nơi gần đền thờ Thần. Trừ phi phải làm lễ ra không thì họ cũng ăn mặc như những người bình thường vậy.
việc của một thần chủ là biết và hiểu các nghi lễ Thần đạo và cách để tiến hành các lễ hội hay buổi lễ Thần. Nhiều người muốn trở thành thần chủ sẽ tham gia các khóa học tổ chức bởi Jinja Honcho, học từ các thần chủ khác,… Các ứng viên tốt nghiệp sẽ được chỉ định bởi Jinja Honcho nếu muốn làm công tác thần chủ tại các đền ở địa phương
trước khi các lễ hội hay buổi lễ được bắt đầu, các thần chủ sẽ tự giam mình lại để chuẩn bị tinh thần cho nghi lễ. Họ tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo sạch (màu trắng), tránh ăn thịt, chỉ ăn một số đồ nhất định và giữ cho tâm hồn thanh thản. Mọi hành vi xâm phạm hay bất tôn kính sẽ khiến họ mất tư cách thần chủ
Thần chủ nữ
Tuy hầu hết các thần chủ theo truyền thống lại đều là nam nhưng Thần đạo không cấm phụ nữ làm thần chủ. Vào thời điểm mà Nhật Bản được cai trị bởi Nữ Thiên hoàng, vị trí thần chủ chính (của đền Ise) được giao cho bà. Trong Thế chiến thứ 2, hầu hết nam giới đều tham gia chiến trận, thì vợ con của họ ở nhà sẽ làm các công việc liên quan đến các nghi lễ Thần đạo, nhiều phụ nữ còn được đảm trách các đền lớn. Ngày nay, vai trò và vị trí của phụ nữ hay đàn ông đối với các nghi lễ Thần đạo là như nhau, không có chuyện trọng nam khinh nữ, tuy nhiên, nam vẫn chiếm số đông
Vu nữ (Miko)
ở nhiều ngôi đền còn có các vu nữ (巫女) tham gia vào các hoạt động tại đền. Vu nữ là những phụ nữ trẻ, còn trinh, thường là con gái của các thần chủ, học các điệu nhảy cổ ở các đền, gọi là Miko-mai (巫女舞) và biểu diễn chúng trong các buổi lễ, ngoài ra họ còn bán bùa, quét dọn sân đền và các điện thờ. Trang phục của họ là bộ kimono trắng với hakama đỏ, và thường cầm cây chổi tre để quét sân
Nếu như kết hôn, công việc của vu nữ sẽ chấm dứt và nhường vị trí cho người khác. Ngày nay phần lớn miko là nữ sinh phổ thông được thuê làm bán thời gian hoặc là những người tình nguyện. Nhiệm vụ của họ là hỗ trợ các phận sự của đền, biểu diễn điệu múa nghi lễ, phân phát Omikuji (một dạng quẻ bói), và phục vụ trong các cửa hiệu của đền
Nghi lễ
nghi lễ chính thức trong Thần đạo thường được thực hiện bởi các thần chủ – những người đã học các cách thức, nghi lễ cổ từ xa xưa vì chỉ có những người này mới có thể “liên lạc” được với thần linh. Mọi nghi lễ cơ bản đều gồm 4 yếu tố: thanh tẩy, dâng lễ, cầu khấn và hội
lễ thanh tẩy, hay còn gọi là harai (祓い) nhằm loại bỏ các tạp chất, bụi bẩn, quỷ dữ, linh hồn đeo bám hay ý nghĩ xấu xa. Hành động rửa tay và miệng chỉ là hình thức tẩy rửa đơn giản, giành cho các cá nhân. Nếu là các thần chủ, họ sẽ vung các cây gậy haraegushi lên và vẩy nước muối hoặc hạt muối – thứ được cho là có sức mạnh thanh tẩy (thường thấy trong Sumo)
nghi lễ thanh tẩy yutate, hay là ngâm mình trong nước nóng. Họ sẽ tiến hành đun 2 nồi nước lớn. Một vị thần chủ sẽ lấy một cây gậy phép được làm từ một cành cây sasaki có gắn các mẩu giấy ở đầu (tượng trưng cho thần)gọi là haraegushi – trông như cây phất trần. Sau đó vẩy nó trên đầu các vị thần chủ khác, các vu nữ và các quan khách đến thăm đền. Vị thần chủ sau đó bắt đầu đọc các bài khấn norito và các vu nữ nhảy các điệu múa cổ ( Miko-mai ). Sau đó, một vu nữ sẽ rắc muối xung quanh 2 nồi nước để thanh tẩy chúng rồi lấy một ít gạo và sake cho vào trong nồi. Tiếp theo cô lấy một cái bát và gáo gỗ, múc “rượu thần”(của ngôi đền) đổ vào nồi. Sau đó múc nước ra một bát, đưa cho Thần chủ để ổng đem vào bàn thờ thần bên trong ngôi đền. Với số nước còn lại trong nồi, vu nữ sẽ nhúng một nhành tre nhiều lá( gọi là Tamagushi)vào nồi rồi vẩy chúng vào mọi người, đồng thời đọc một vài lời khấn đặc biệt. Sau đó, nước trong 2 nồi sẽ được truyền đi cho mọi người cùng uống, vừa để thanh tẩy, vừa để kết nối họ với thần
tiếp là dâng lễ, hay còn gọi là shinsen (神饌) là các món quà được làm/ mua dâng tặng các thần, ít nhất 1 lần 1 ngày. Người ta tin rằng nếu như thủ tục tặng quà cho thần hằng ngày bị bỏ qua, các thần sẽ không vui là sẽ ngừng phù hộ cũng như bảo vệ người dân. Tại gia đình hoặc các đền miếu nhỏ, đồ vật được dâng tặng thường là các đồng xu, tiền lẻ, hoa hoặc thức ăn gói nhỏ như kẹo hay bánh gạo. Ở các đền thờ lớn hơn, các mòn quà dâng lên các thần thường tùy theo quy định của mỗi ngôi đền, và được tiến hành sau khi các thần chủ làm xong nghi lễ tẩy rửa. Thức ăn và đồ uống, chủ yếu làm từ gạo và rượu sake là những đồ vật phổ dụng nhất, tuy nhiên các món ăn khác như rau, cá hay nước lọc cũng được chấp nhận. Ngoài ra còn có các tấm vải, lụa, tiền, trang sức hay một sản phẩm, sản vật nào đó. Các điệu nhảy, sumo hay kịch cũng được coi là các món quà mua vui cho thần
Việc dâng lễ được tiến hành tại một buồng nhỏ gọi là thần điện (神殿 – shinden) hay còn gọi là honden (本殿). Đây là nơi thần trú ngụ và là nơi linh thiêng nhất của một ngôi đền
trước tiên, mọi người sẽ cúi chào một cách tôn kính, sau đó thần chủ sẽ mở cánh cửa của thần điện (mitobira) và hát “ooo ooo ….” nhằm thu hút sự chú ý của thần. Thần chủ sau đó dâng lên các lễ vật, cứ mỗi lần 1 lễ vật được dâng lên, sẽ có các vu nữ hoặc thần chủ nhảy múa xung quanh. Những người đến lễ khác sẽ lần lượt dâng một nhành cây sasaki đặt lên bệ, vỗ tay và cúi đầu (trong lễ hội lớn sẽ có một người đại diện tiến lên dâng lễ). Sau khi tất cả lễ vật được dâng lên cho thần, mọi người lại cúi đầu một lần nữa, Thần chủ gỡ các món đồ lễ xuống và đóng cửa thần điện lại và tham gia “hội” (naorai)
kết thúc buổi lễ Thần là “hội” , hay là naorai (直会), nghĩa là “cùng ăn với thần”. Khi đó, các đồ lễ được hạ xuống và được chia cho mọi người, thường là sake, nước, và các đồ ăn khác (như bánh gạo,…), mọi người đến lễ sẽ tập hợp quanh một chiếc bàn, cùng nghe nhạc và thưởng thức các món ăn
câu khấn cổ, gọi là norito (祝詞) được viết và nói bằng chữ Nhật cổ, và người Nhật Bản ngày nay thì không hiểu ngôn ngữ này. Các câu khấn được biên soạn theo dạng thơ có vần điệu từ xa xưa sao cho đọc lên nghe vừa tai các thần. Một norito được đọc lên phải được phát âm chính xác nếu không nó sẽ không đến được tai các vị thần. Các câu khấn mới dành cho một số ngôi đền, được biên soạn bởi Hiệp hội các ngôi đền Thần đạo (Jinja Honcho) vì ở đây có một cơ quan chuyên về Nhật ngữ cổ. Nói chung một bài khấn được mở đầu bằng những lời ngợi ca các thần, rồi dâng lễ, đề đạt nguyện vọng và kết thúc bằng việc bày tỏ lòng kính trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét