năm 1811 nhà bác học Samuel Thomas von Sommerring (ảnh dưới) gây dựng mạng lưới điện báo đầu tiên ở bang Bavaria, nay được trưng bày ở bảo tảng khoa học Đức ở Munich
dây cáp của Sommerring vắt qua sông, nên đã được bọc cao su tự nhiên; tuy nhiên, thiết bị đã hư hỏng vì cao su tự nhiên là protein thực vật thấm nước
năm 1838 bác sĩ William Brooke O'Shaughnessy (ảnh dưới) người Ireland - nổi tiếng đã tiên phong bổ sung máu và chất điện giải, trong điều trị bệnh tả - tiên phong một phương pháp chống rò rỉ nước: quấn dây dẫn trong vật liệu mây [rattan] và sau đó quấn lần nữa với sợi được phủ hắc ín; để khoá kín dây cáp, bảo vệ khỏi nước sông
Bọc dây cáp
năm 1845 hai anh em Brett (ảnh dưới: John Watkins Brett) đề nghị thi công dây cáp từ Anh đến thành phố Calais, Pháp; quấn dây cáp điện báo, dày nửa inch, trong Gutta Percha (chây) là nhựa hữu cơ trơ - nhập khẩu từ Malaysia
năm 1850 nhóm đã thi công dây cáp xuống lòng biển, sử dụng tàu thuỷ có guồng, lấy tên là Goliath
dây cáp đã nằm ở độ sâu 54 mét dưới mặt nước biển, được cố định bởi gạch trưởng (ảnh dưới: lead brick); một ngư dân Pháp đã cắt dây, tưởng rằng ấy là một loài rong biển lạ
năm 1851 kỹ sư đường sắt Thomas Russell Crampton (ảnh dưới) đưa ra thiết kế mới, những dây cáp đã được bọc 'chây' sẽ được gói trong bọc thép ở ngoài
năm 1866 dây cáp điện báo xuyên Đại Tây Dương lần đầu tiên được thi công, dài 4023 km, được quấn trong 3 lớp 'chây' - tổng cộng đã sử dụng 300 tấn Gutta Percha
thập niên 1940 'chây' được thay thế bởi nhựa polyethylen
quanh lõi, có một lớp đệm, tiếp đó là những dây bọc thép - của kỹ sư đường sắt Crampton thiết kế - ngăn chặn vi khuẩn và nước biển nhiệt đới khỏi ăn mòn ruột Gutta Percha
những hãng dây cáp thỉnh thoảng rắc phủ lên những bột silica hoặc lá đồng thau
Dây cáp hiện đại
thập niên 1940 dây cáp điện báo đã bị dây cáp điện thoại thay thế, bổ sung những bộ lặp - tăng cường tín hiệu và cải thiện chất lượng dữ liệu
năm 1955 cáp điện thoại TAT-1 lần đầu tiên được thi công dưới lòng biển xuyên Đại Tây Dương
thập niên 1980 trình làng dây cáp sợi quang, tăng băng thông dữ liệu được dây cáp truyền tải
đơn giản nhất là những dây cáp nhẹ, tải công việc chính của ngành; chỉ có những dây thép quấn quanh, cùng với một ít nhựa polyethylen; những dây cáp này thích hợp ở vùng nước nông, được đánh giá là vùng nước an toàn và yên bình
phức tạp hơn, ta bắt đầu thêm những lớp bảo vệ; dây cáp bọc nhẹ [lightweight protective cable] có thêm những lớp polyethylen và băng thép, chủ yếu chống động vật và ma sát
cáp bọc thép đơn [single armored cable] là cáp nhẹ, chỉ có một lớp dây thép và polyethylen quấn quanh, chống cắt tốt hơn
cáp bọc thép kép [double] có hai lớp dây thép mạ điện, quấn quanh bên ngoài dây cáp nhẹ tiêu chuẩn; ứng dụng ở vùng nước, nếu không thể chôn dây
Thi công dây cáp
thuyền sẽ chở nhiều nghìn tấn dây cáp, bên trong két dây cáp, thả ra từ phía mũi của két và đi qua một trục lăn - gọi là cable highway - đến động cơ dây cáp thẳng
động cơ dây cáp thẳng sẽ thực hiện việc thi công, hoặc thu hồi dây cáp; thiết kế phổ biến nhất sử dụng lốp xe để xử lý dây cáp
trong quá trình thi công, dây cáp sẽ chịu áp lực lớn, cho nên các kỹ thuật viên trên thuyền sẽ kiểm tra chất lượng, kiểm tra hư hỏng; đôi khi, họ sẽ chạy thử dây cáp để kiểm tra tình trạng nguyên vẹn của cáp
nếu dây cáp quá dài, cứ mỗi 60-80 km sẽ cần một trạm bộ lặp [repeater] để khuếch đại tín hiệu và khôi phục thù hình tín hiệu; đôi khi cần gắn một mảnh dây cáp vào phần còn lại của một dây cáp khác - tiến trình gọi tên là jointing - chuẩn bị phần cuối của dây cáp, nối bện với dây cáp mới, sau đó đóng gói lại trong nhựa polyethelyn và bọc thép, trả lại 90% sức mạnh ban đầu của cáp
Môi trường: ma sát
hải lưu và sóng biển có thể chà xát vỏ ngoài của dây cáp vào sỏi đá, phá hoại lớp phủ bảo vệ bên ngoài của cáp, phơi bày phần bên trong dây cáp ra nước biển
ăn mòn [corrosion] gây ra bởi sinh vật; ở vùng nước nông, những con hà, vỏ sò, bọt biển có thể bám lên dây cáp; khiến dây cáp bị xù lông lên
ở vùng nước sâu, tảo bẹ và san hô sẽ làm tương tự; ở vùng nước thích hợp cho san hô phát triển, san hô có thể mọc và bám đầy lên dây cáp
Môi trường: đất trượt và động đất
khi đất trượt xảy ra, sẽ có những dòng chảy rối, nhanh, dày đặc, cuốn nước và những thứ khác xuống với tốc độ 72 km / giờ, mạnh như tuyết lở
từ thập niên 1880 đất trượt đã phá hoại dây cáp, những tàu sửa chữa dây cáp đã nhận thấy những đoạn cáp hư hỏng, bị chôn trong những đống bùn (hoặc sỏi) mới; nhưng các nhà khoa học chưa nhất thiết liên hệ việc này với hiện tượng đất trượt
năm 1929 động đất Grand Banks mạnh 7.2 độ richter ở Canada, một giờ sau đó đã xảy ra đất trượt, khiến 175 kilomet khối cát và bùn đất bị lở, cắt 11 dây cáp
năm 2006 động đất 7 độ richter ở bờ biển tây nam Đài Loan đã gây lở đất và cắt nhiều dây cáp, ảnh hưởng liên lạc ở Đài Loan và cả Đông Nam Á
hiện tượng lở đất là đặc biệt nghiêm trọng ở những đồng bằng, nơi cửa biển; sau giông bão, sông sẽ đổ lượng lớn bùn đất và sinh vật ra biển, thành đống vật liệu nhão nhoét [slump] cuốn đi và phá huỷ mọi thứ cản đường
hẳn là động đất cũng có thể tự phá hoại dây cáp, sóng địa chấn sẽ khiến đất đáy biển bị trượt; động thái có thể phá hoại những dây cáp nằm trên đáy biển, như xảy ra năm 1929 trận động đất Grand Banks
Môi trường: động vật
cá voi lặn sâu dưới đáy biển tìm thức ăn, bơi vướng vào dây cáp; giả thiết là cá voi bơi dưới đáy biển, mồm há rộng, hàm dưới bị vướng phải dây cáp; khi cá voi vùng vẫy tìm cách thoát, nó càng bị trói vào dây cáp; cá voi bị mắc vào dây cáp, không thể thoát ra, không thể ngoi lên mặt nước, và bị chết đuối
cá mập cũng thỉnh thoảng cắn dây cáp, các nhà sinh vật học chưa rõ nguyên nhân; những biện pháp gia cố dây cáp đã giải quyết được vấn đề
Ngư dân
2/3 số vụ hư hỏng dây cáp ở độ sâu hơn 200 mét là do con người, cụ thể là mỏ neo và lưới đánh bắt cá
khi thuyền thả hoặc nhổ neo, thuyền sẽ kéo lê mỏ neo; nếu mỏ neo đụng phải dây cáp và cào dây cáp, mỏ neo có thể cạo bỏ vỏ bọc thép và bên trong dây cáp
nguy hiểm cho dây cáp, có 2 loại lưới bắt cá: lưới có tấm ván đẩy [otter trawl] có hình nón, để thuyền rà vét cá dưới đáy biển
có 2 tấm ván gỗ được-gia-cố-thép nặng 1 tấn, gọi tên là bảng rái cá [otter-board], sẽ kéo lưới rà dưới đáy biển; những ván gỗ này có thể đụng vào dây cáp không-được-chôn
loại lưới thứ hai là lưới rà có thanh dầm [beam trawl] cũng có hình nón, với cái túi phía sau; rộng 10 mét và nặng 4-5 tấn
lưới ra có thanh dầm sẽ có những thanh trượt [slider] hoặc giầy ở dưới, trượt trên đáy biển khi bị thuyền cá kéo đi
năm 2009 đã thay đổi 'giầy' này, thành những bánh răng cánh gạt [wing gear] nhấc lên trên đáy biển; người ta nhận thấy, mặc dù không đụng trực tiếp vào dây cáp, thiết kế này vẫn cạo lên vỏ ngoài cách điện của dây cáp, phơi bày dây cáp ra môi trường
năm 1884 quy ước dây cáp là luật quốc tế đã quy định, nếu mỏ neo hoặc lưới của ngư dân bị va đụng với dây cáp, họ bị buộc phải từ bỏ thiết bị ấy và báo cáo vụ việc cho chủ sở hữu dây cáp; đổi lại, ngư dân được đòi bồi thường cho thiết bị đã từ bỏ, tuy nhiên không ghi rõ ngư dân sẽ được bồi thường cách nào
những công ty quản lý cáp đáy biển đã đào rãnh để chôn dây cáp, và tăng gấp đôi vỏ bọc thép, nếu dây cáp được thi công ở độ sâu nông hơn 1500 mét; sâu hơn 1500 mét, rủi ro ngư dân sẽ không còn, vì nước quá sâu, các công ty sẽ mặc kệ dây cáp nằm tơ hơ dưới đáy biển
Âm mưu phá hoại
tháng 3 năm 2007 hai thuyền Việt Nam đã phá hoại 79 và 98 km dây cáp của hai mạng lưới Đông Nam Á để lấy vật liệu đồng để đem bán; mạng internet Việt Nam bị đình trệ 3 tháng
vụ việc tương tự xảy ra ở Jamaica, Indonesia và Ai Cập...
hầu hết dây cáp ở vùng đặc quyền kinh tế, cách bờ biển 322 km, thì khá an toàn; nhưng xa hơn, luật pháp sẽ khó đụng; thủ phạm chỉ bị phạt hành chính nhẹ nhàng, có khi không bị phạt
phá hoại dây cáp thông tin liên lạc cũng là một chiến lược phá hoại của chiến tranh bất đối xứng, có thể đình trệ khả năng thông tin liên lạc trong thời gian dài; hành vi cắt dây cáp hoặc chiến lược quản lý cáp là một điểm thiết yếu của kế hoạch chiến tranh
ví dụ, thế chiến 1 người Anh quản lý mạng lưới dây cáp đáy biển đã cắt bỏ Khối Trục khỏi những sở hữu nước ngoài; và thế chiến 2 đã buộc phe Đức Quốc Xã liên lạc qua sóng vô tuyến [radio] tạo cơ hội nghe lén và giải mã
hoặc hiện nay chiến tranh Nga-Ukraine, tin tức rằng dây cáp biển Đỏ bị cắt - cũng đang ảnh hưởng tốc độ internet
Bảo vệ
cách tốt nhất là đào rãnh và chôn dây cáp dưới đáy biển: khó vì không thể sử dụng thiết bị đào đất dưới nước
ngày nay, phổ biến nhất là tia nước áp-suất-cao [jet] hoặc máy đào rãnh dưới nước (ảnh dưới)
đào rãnh sâu thế nào là tuỳ điều kiện môi trường, thực tiễn cho thấy rằng không sâu hơn 2 mét; nếu đáy biển rất mềm, mỏ neo vẫn có thể đụng hỏng dây cáp; cần đào sâu hơn
cuối thập niên 1990 các công ty quản lý cáp quang đã đưa ra chỉ số chôn bảo vệ [burial protection index] được sử dụng để tính độ sâu của hàng nghìn km dây cáp được chôn, nhưng nay thì chỉ số này đã lạc hậu; giờ sẽ tuỳ theo đánh giá rủi ro của công ty [integrator]
nếu đáy biển quá cứng, không đào được, lựa chọn phổ biến khác là đá xây kè [riprap]
trước tiên, trải xuống những viên đá nhỏ lên trên dây cáp, sau đó đến những viên đá to hơn; đá xây kè sẽ hiệu quả nhất ở những dòng nước yên bình, đá ít bị xô đẩy
cách khác là đĩa đậy [cover plate] hoặc ống bọc [casing pipe], bọc dây cáp lại và sau đó có thể trải thêm đá xây kè, nếu cần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét