cuối thế kỷ 1800 đầu thế kỷ 1900 vịnh Péc-xích cung cấp 80% ngọc trai khai thác tự nhiên toàn cầu: khảo sát đương thời cho thấy 95% nam giới độ tuổi lao động ở Qatar làm trong ngành ngọc trai
năm 1916 con buôn Mikimoto Kōkichi [Ngự Mộc Bản Hạnh Cát] người Nhật Bản: đã tạo được phương pháp nuôi cấy ngọc trai hình-cầu quy mô lớn đầu tiên, và đã khởi nghiệp công ty ngọc trai cao cấp Mikimoto, công ty được trao bằng sáng chế cho việc trồng ngọc trai - năm 1985 để kỷ niệm 100 năm thành lập hệ thống sáng chế, Mikimoto được chọn làm một trong 10 nhà phát minh hàng đầu Nhật Bản
Khởi đầu
vịnh Ba Tư là vành đai nông ở Ấn Độ Dương nằm giữa bán đảo Ả-rập và vùng tây nam Iran: giáp Kuwait và Irắc về phía tây bắc, Ả-rập Xê-út và Qatar về phía tây và tây nam, các Tiểu Vương quốc Ả-rập thống nhất [UAE United Arab Emirates] và một phần Oman về phía nam và đông nam
người ta tìm thấy bằng chứng khảo cổ cho thấy ngọc trai và trang sức xỏ ngọc trai đã xuất hiện ở những nơi quanh Kuwait từ năm 5000 trước công nguyên (ảnh dưới : vòng cổ Hy Lạp thế kỷ 3 trước công nguyên)
ngoài bằng chứng khảo cổ là những đá khắc chữ tượng hình, năm 400-100 trước công nguyên, các tác giả Hy Lạp đã ghi nhận nghề mò ngọc trai ở Vùng Vịnh (ảnh dưới: sổ tay Ashburnham ghi chép 4 phúc âm của Thiên Chúa)
vịnh Péc-xích có được cuộc bùng nổ kinh tế ngọc trai đầu tiên nhờ đế chế La Mã: tương truyền, nhà độc tài Julius Caesar trả 6 triệu đồng xettec [sertertii] tương đương 650 000 đôla Mỹ mua một viên ngọc trai để làm quà biếu
và nữ hoàng Cleopatra đánh cược với Mark Antony (ảnh dưới) rằng bà có thể thưởng thức một bữa ăn trị giá 60 triệu đồng xettec: nữ hoàng thắng cược nhờ hoà lẫn một viên ngọc trai trong bát dấm
nhiều thành phố Ả-rập đã làm giàu nhờ kết nối đông tây, giao thương hàng hoá như ngọc trai đến những nơi trù phú ở Ấn Độ Dương
nhiều năm Bahrain (ảnh trên) giữ vị thế lớn nhất: thế kỷ 1400 số hạm đội buôn ngọc trai đã lên đến 1000 tàu
Thuộc địa hoá
thế kỷ 1500 người Bồ Đào Nha và các cường quốc châu Âu đã thuộc địa hoá các thành phố quanh Ấn Độ Dương: rời bỏ những con đường tơ lụa cũ, cắt bỏ nguồn thu nhập của Ả-rập (ảnh dưới: vua Francis 1 của Pháp)
ngành thương mại suy giảm, cùng với chuyển dịch xu hướng trong chính trị Vùng Vịnh, đã tạo điều kiện nổi lên những trung tâm ngọc trai khác ngoài Bahrain: ví dụ thành phố Julfar (ảnh dưới) phía bắc thành Ras al-Khaimah hiện đại ở UAE
thế kỷ 1700 ngành ngọc trai đã tăng trưởng đủ lớn để nuôi sống những thành thị đông đúc
thế kỷ 1800 người Anh xuất hiện: bấy giờ, sức mạnh hải quân hàng đầu khu vực là vương triều Al Qasimi ở vịnh Ả-rập có 500 tàu - những tuyến hàng hải thương mại cũ đến Ấn Độ Dương đã xung đột với các công ty thuộc địa châu Âu
năm 1809 và 1819 người Anh mở 2 chiến dịch đánh: coi hải quân Ả-rập là hải tặc - hai chiến dịch đã thắng lợi, dẫn đến những hiệp ước bất công năm 1919 dỡ bỏ những hạm đội Ả-rập, ngoại trừ những tàu mò ngọc trai
Ngọc trai
biển vịnh Péc-xích nông và tĩnh lặng, nhưng cũng ấm: thích hợp nuôi trồng hàu - người ta lặn mò những lúc nước biển ấm (ảnh dưới: vương hậu Isabelle de Valois của vương quốc Anh)
truyền thống cũ là lặn mò 4 tháng mỗi năm, đầu thế kỷ 1900 mùa lặn đã chia ra 3 giai đoạn: một là "lặn lạnh" [Ghaws al-Barid] vào giữa tháng 4 hoặc 5, kéo dài 40 ngày
hai là "lặn quy mô lớn" [Graws al-Kabir] từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 9: một tiêu vương [emir] sẽ chỉ định một đô đốc chỉ huy hạm đội bơi thuyền ra thềm lục địa [sea bank] - chuyến đi sẽ được làm lễ rửa tội [christen]
thềm lục địa là sở hữu chung [communal] nên hạm đội có thể chọn địa điểm nào họ nghĩ là hàu xịn nhất: có 271 đáy ngọc trai được vẽ hải đồ ở Vùng Vịnh - nhưng hầu hết các thuyền trưởng ghi nhớ địa điểm ưa thích, nơi có thể trống rỗng năm nay nhưng bội thu năm sau (ảnh dưới: nữ hoàng Maria Theresa của Hungary)
ở đáy ngọc trai, các thợ lặn sẽ kẹp mũi bằng một cái kẹp chuyên dụng làm từ mai rùa hoặc xương cừu: họ lặn sâu 15 mét xuống đáy biển, có hỗ trợ là vật nặng buộc vào chân - dưới đáy biển, họ thu nhặt hàu cho vào túi buộc quanh cổ
kỷ lục nín thở của những thợ lặn là 4 phút: điều kiện làm việc khắc nghiệt và đã có người chết - xong, túi và thợ lặn sẽ được thuỷ thủ trên tàu từ từ kéo lên mặt nước
thợ lặn sẽ nghỉ vài phút trước khi lặn tiếp: nếu thuận lợi, một ngày một thợ lặn có thể thực hiện 50-60 cú lặn như thế - kỷ lục lên đến 100 cuộc (ảnh dưới: bà Abinger, bà Adair, bà Wimborne Hon, bà Renard Greville, Marchioness của Lansdowne, bà Londonderry và nữ nam tước de Forest)
con trai [hàu] sẽ để qua đêm đến khi yếu chết: những nam công nhân sẽ cậy mở trai ra trước mặt các thợ lặn để ngăn khỏi lừa đảo
kết thúc cuộc "lặn lớn", các thuyền trở về sau 3 tuần: cuộc trở về [al-raddah] được liên hoan ăn mừng - ngọc trai sẽ được mua tại chỗ bởi các lái buôn, những thương lái sẽ đưa đến nơi là Mumbai ngày nay, ngọc trai có thể được bán hoặc vận chuyển đến Paris, Luân Đôn, New York... (ảnh dưới: hoàng hậu nước Nga)
hết mùa lặn, các thợ lặn có thể làm nông: nếu thợ lặn thất thu hoặc chịu được lạnh thì có thể trở lại làm chuyến "lặn lạnh"
Xu hướng mới
nửa cuối thế kỷ 1800 xu thế mới đã tạo điều kiện cho một cuộc bùng nổ kinh tế lớn trong ngành ngọc trai Vùng Vịnh: nhờ tầng lớp trung lưu châu Âu đã gia tăng thu nhập khả dụng và trở thành nhóm khách hàng mới, bên cạnh nhóm khách thượng lưu cũ ở Ấn Độ và những nơi khác châu Á
ở Pháp, hoàng hậu Eugenie de Montijo tiên phong đeo ngọc trai đen Tahitian và đã khơi dậy xu hướng thời trang Paris: ngọc trai trở thành biểu tượng của "khẩu vị cao quý"
ở Paris, thợ kim hoàn Leonard Rosenthal nói rằng "vòng cổ ngọc trai đã trở thành một trong những minh chứng của phẩm giá tư sản"
động vật thân mềm ngậm-ngọc có thể tìm thấy khắp thế giới từ sông Mississippi đến Scotland đến Sri Lanka [Ceylon] đến biển Đỏ: nhưng ngọc trai Vùng Vịnh nổi trội vì nhiều lý do
một là ngọc trai Vùng Vịnh sặc sỡ: vàng, hồng, xanh dương... hợp thị hiếu người Pháp - vẻ rực rỡ được lưu giữ lâu bền hơn nếu được chà xát bằng dầu dưỡng da mặt
hai là những thị trường cạnh tranh cung cấp ngọc trai ở Sri Lanka thuộc địa Anh và biển Đỏ đã bị nhiều nhược điểm: Sri Lanka bị thiên tai, còn biển Đỏ bị hải tặc đe doạ - từ cuối thế kỷ 1800 đến đầu 1900 Vùng Vịnh nắm vị thế gần độc quyền ngọc trai tự nhiên
Đỉnh cao ngành ngọc trai
cho đến năm 1870 ngành ngọc trai Vùng Vịnh đã đạt doanh thu 1.4 triệu rupee Ấn Độ; năm 1873 một mình Bahrain đạt doanh thu 1.4 triệu rupee Ấn Độ; các quốc gia Vùng Vịnh của UAE ngày nay đã đạt 1.1 triệu rupee doanh thu thường niên
xuất khẩu ngọc trai Vùng Vịnh - được người Anh ghi nhận theo doanh thu, thay vì doanh số, do đặc thù của ngành kinh doanh đá quý - đã cho thấy gấp đôi doanh thu từ năm 1873 đến 1902
năm 1908 nhà ngoại giao John Lorimer (ảnh dưới) xuất bản công trình khảo sát toàn diện ngành ngọc trai Vùng Vịnh: bấy giờ, ngành mò ngọc trai đã chiếm 75% xuất khẩu Vùng Vịnh Ả-rập
suốt 4 tháng một năm, thành phố sẽ vắng bóng những nam thanh niên lao động: ước tính 4500 thuyền và 74000 người ra biển từ khắp nơi Vùng Vịnh - có năm, con số lên đến 8 vạn người
khảo sát của Lorimer cho thấy 50-70% đàn ông Vùng Vịnh làm việc liên quan đến ngành mò ngọc trai: chính quyền và thống đốc địa phương sẽ lấy 60-80% thu nhập của những công nhân ấy từ buôn bán ngọc trai - động lực cho họ bảo vệ ngành công nghiệp khỏi can thiệp nước ngoài, và chính quyền cũng có nỗ lực quy định để ngăn chặn khai thác quá mức
năm 1877 William Palgrave (ảnh trên) nhớ lại Sheikh Mohammed bin Thani - về sau có con trai là Sheikh Jassim bin Mohammed Al Thani đã thành lập tiểu vương quốc Qatar - đã nói: "tất cả chúng tôi, từ thượng lưu cho đến nô lệ thấp kém, đều phục vụ chủ nhân duy nhất là Ngọc Trai"
Đánh đổi
cuối thế kỷ 1800 nhiều công nhân mò ngọc trai là người nhập cư: mỗi thợ lặn sẽ được trả theo số ngọc trai mò được, bớt chi phí sinh hoạt trên thuyền - bởi vì hầu hết thợ lặn không có tiền trả trước, họ vay mượn thuyền trưởng, và thuyền trưởng vay mượn các thương lái ngọc trai
thuyền trưởng và thợ lặn, nếu sau nhiều mùa ngọc trai thất thu, sẽ tích luỹ nợ: cầu nguyện một mùa ngọc trai bội thu sẽ vớt vát lại - nếu không, tài sản và cả gia đình của họ sẽ bị gán cho chủ nợ
Ngọc trai nhân tạo ở Trung Quốc
người Trung Quốc cổ đại cũng trân trọng ngọc trai: tìm kiếm những vi con trai [mussel] mang-ngọc dưới đáy sông - công việc nguy hiểm, nhiều thợ lặn chết đuối, chết rét hoặc bị sinh vật sông tấn công
thế kỷ 11 nhà Tống đã lần đầu ghi nhận ngọc trai nhân tạo từ động vật thân mềm: lấy vi con trai nước ngọt lớn và đưa nó vào nước sạch, sau đó con trai sẽ há mồm và tạo cơ hội đặt một hạt ngọc trai giả sáng bóng vào nó - sau đó đợi, thường xuyên thay nước để giữ sạch và giữ con trai dưới trăng sáng buổi đêm; sau 2 năm sẽ được một hạt ngọc trai
nhà Tống có chèn những bức tượng điêu khắc Phật vào những con trai nước ngọt: tạo ra viên ngọc trai blister [giộp] - những tạo tác nghệ thuật quý báu mà người châu Âu đã thử bắt chước nhưng thất bại
sau nhiều năm, người Trung Quốc đã rèn rũa kỹ thuật này và gây dựng một ngành ngọc trai nuôi cấy nho nhỏ: tương truyền, ngọc trai Trung Quốc nuôi cấy đã rất ưu việt - khó có thể phân biệt với ngọc tự nhiên - chỉ là quy mô sản xuất chưa lớn
thế kỷ 1700 nhà truyền giáo Pere François Xavier d’Entrecolles người Pháp đã kể chi tiết tiến trình: "lấy nửa chậu nước sạch, đặt vào con trai lớn nhất tìm được, đặt chậu ở một nơi tách biệt mà sương có thể rơi lên, nhưng không được cho phụ nữ lại gần, và phải yên tĩnh không nghe tiếng chó sủa hay tiếng gà kêu"
"tán thành bột những viên ngọc-mầm, như giã bột thuốc, dấp bột này với nước ép vắt từ lá của một loài cây nhựa ruồi, và sau đó cuộn bột đã dấp nước vào thành những viên thuốc tròn có kích thước to bằng hạt đậu Hà Lan"
"phơi khô những viên ấy dưới ánh sáng mặt trời vừa phải, và sau đó chèn cẩn thận vào bên trong những vỏ há miệng của động vật thân mềm"
"đợi 100 ngày, mỗi ngày con trai sẽ được nuôi dưỡng bởi nhân sâm tán thành bột, cây riềng, peki là một loài rễ cây... và pecho là một loài rễ cây thuốc khác, tất cả trộn với mật ong và tạo khuôn hình hạt gạo"
Làm ngọc trai
từ lâu, người ta biết rằng ngọc trai tự nhiên là từ những vật thể lạ bị lọt vào cơ thể của con hàu: sau đó nó phủ trong một chất [substance] tên là lớp xà cừ [nacre] còn gọi là "mẹ của ngọc trai" (ảnh dưới: soi dưới kính hiển vi 30x)
văn học dân gian phương Tây kể rằng con hàu hoặc con trai sẽ tạo ngọc khi chạm với một giọt mưa hoặc sương: đã lưu truyền nhiều thế kỷ - không rõ lý do
đầu thế kỷ 1600 nhà tự nhiên học Anselmus de Boodt người Vlaanderen và thám hiểm gia Pedro Teixeira người Bồ Đào Nha đã chỉ ra rằng ngọc trai và bên trong vỏ của động vật thân mềm là giống nhau thành phần cấu tạo: họ ám chỉ rằng ngọc trai là kết quả một căn bệnh trong con hàu
đầu thế kỷ 1800 các nhà khoa học cắt mở những viên ngọc trai nhỏ và tìm thấy những hạt nhỏ chỉ to bằng trứng hàu: phát triển lý thuyết rằng ngọc trai là từ trứng của con hàu bài tiết ra
các nhà khoa học khác nhận thấy rằng con hàu thường nhiễm ký sinh trùng: thập niên 1850 nhà khoa học Filippo de Filippi ở Ý đã nghiên cứu con trai nước ngọt và kết luật rằng ngọc trai có nguồn gốc ký sinh trùng
suốt thế kỷ 1800 đến đầu thế kỷ 1900 lý thuyết ký sinh trùng đã lan rộng: kể cả ngày nay, trang wikipedia vẫn tuyên bố rằng phần lớn ngọc trai tự nhiên là xuất xứ với ký sinh trùng hoặc vật lạ xâm nhập vào động vật thân mềm
vấn đề với lý thuyết ngọc trai ký sinh trùng là khó nuôi cấy hàng loạt ngọc trai nhân tạo: đầu thế kỷ 1900 các doanh nhân đã khởi nghiệp nhiều thương vụ cấy ghép ký sinh trùng vào những con hàu để làm ngọc - đều thất bại
Nhật Bản
năm 1858 Kokichi Mikimoto sinh ra trong gia đình hiệu mỳ udon; năm 11 tuổi cha bệnh, Mikimoto bỏ học bán rau trên phố; sau này ông đổi nghề sang bán hải sản, thành công đến mức được chỉ định làm chủ tịch hiệp hội cải thiện hải sản [marine products improvement association] địa phương
ở Nhật Bản, lâu đời có nghề nuôi hàu Akoya lấy ngọc trai tinh xảo giá cao: nhưng những năm bùng nổ kinh tế ngọc trai toàn cầu, quần thể hàu đã bị đánh bắt quá mức
năm 1888 Mikimoto thử nghiệm nuôi trồng thuỷ sản hàu ở quần đảo Tahoku vịnh Ago nuôi cấy những hạt ngọc trai tròn
năm 1890 Mikimoto được giới thiệu đến giáo sư Kakichi Mitsukuri ở cơ sở đã trở thành đại học Tokyo ngày nay: nhận được giáo dục toàn diện về lịch sử nuôi cấy hàu phương Tây
Hình thành ngọc tự nhiên
hàu ngọc trai sẽ bắt đầu hình thành ngọc khi chịu một chấn thương vào lớp phủ [mantle lớp bì]: lớp phủ là cơ quan ngoài cùng của hàu, xếp phần bên trong của những van của vỏ [shell] và bao bọc những cơ quan và mô mềm của hàu
một chất kích thích [irritant] ngoại lai, ví dụ ký sinh trùng, xâm nhập vào khoảng trống giữa lớp phủ và lớp vỏ: có thể chỉ là một hạt cát, một viên đá, một vụn vỏ vỡ... không quan trọng
khi hàu cảm nhận được chấn thương, những tế bào từ những lớp bên trên của lớp vỏ sẽ đi vào nó [chấn thương]: sinh sôi nảy nở bằng cách phân chia tế bào - vây quanh chấn thương hoặc thứ kích thích [irritant] để tạo ra một cục u đậu [cyst] gọi là "pearl sac"
năm 1856 nhà khoa học von Hessling phát hiện ra pearl-sac: những tế bào trong pearl-sac bắt đầu sản sinh nhiều lớp vật liệu sẽ tạo ngọc; nếu có ký sinh trùng bên trong pearl-sac thì nó sẽ bị phân huỷ
Đột phá đầu tiên
từ đầu Mikimoto muốn làm ngọc trai hình cầu: thử chèn nhiều vật thể hoặc hạt nhân vào hàu để mô phỏng hàu tạo ra pearl-sac; ông đã thử hạt nhân làm từ san hô, bào ngư, xương, vảy cá tán thành bột... vào hàu
năm 1892 Mikimoto có đột phá: tạo những hột từ vỏ của những hàu khác và chúng đã hình thành ngọc trai hình bán cầu - những mặt phẳng đáy đã giúp những ngọc trai ấy dễ gắn
năm 1893 Mikimoto đăng ký bản quyền và nhân rộng quy mô kinh doanh ngọc trai bán cầu: mở cửa hàng ở quận Ginza và bắt đầu quảng bá ngọc trai nuôi cấy của công ty ra nước ngoài
Đột phá hình cầu
con gái thứ hai của Mikimoto cưới một học trò của ông là Tokichi Nishikawa
năm 1901 Nishikawa ở Úc làm thanh tra thuỷ sản, nơi anh gặp một thanh tra khác là bố vợ của nhà khoa học Tatsuhei Mise: hai thanh tra đã biết đến công trình của nhà sinh vật biển William Saville-Kent (ảnh dưới) người Anh bấy giờ đang ở Úc nghiên cứu san hô
năm 1890-1893 ghi chép cho thấy Saville-Kent thực hiện thí nghiệm hình thành ngọc trai ở eo biển Torres
năm 1902 Nishikawa trở về Nhật Bản cùng với bố dượng của Mise: và có lẽ bố dượng của Mise đã kể cho Mise về phát hiện được ở Úc nên Mise lập tức bắt đầu thí nghiệm nuôi cấy ngọc trai ở tỉnh Mie quê nhà
năm 1907 Mise nộp đơn đăng ký bản quyền cho phương pháp [procedure], trong khi Nishikawa bí mật làm riêng với Mikimoto (ảnh dưới) để nuôi cấy ngọc trai hình cầu
Mikimoto đưa Nishikawa đến một đảo bí mật: nhóm đã thử 27000 con hàu
năm 1905 thuỷ triều đỏ quét qua những hàu của Nishikawa và giết số lớn: kỳ diệu là các công nhân tìm thấy 3 ngọc trai hình cầu sót lại trong những hàu còn sống
năm 1907 Nishikawa cũng nộp đơn đăng ký bản quyền: 2 phương pháp khá giống nhau đã dẫn đến xung đột bản quyền - đều sử dụng hạt nhân tương tự là một hột hạt [bead] và một mảnh nhỏ mô áo [mantle tissue] tên là saibo
saibo đã được chọn kỹ từ một con hàu hiến tặng khác biệt, và được tiếp xúc chắc chắn với hột hạt nhưng không hoàn toàn bao phủ nó [bead] - rất quan trọng
sau đó hạt nhân sẽ được cấy vào con hàu: sử dụng công cụ nha khoa đã chỉnh sửa, hoặc kim khâu
Nishikawa phát minh ra trước nhưng Mise nộp đơn đăng ký bản quyền trước - năm 1908 hai bên hoà giải, Nishikawa chết ung thư và Mise quyết định hoà giải với phần thiệt về phía mình, viết hồi ký rằng: "Tokichi Nishikawa sắp chết vì bệnh và [vấn đề này] phải được dàn xếp càng sớm càng tốt"
năm 1909 Nishikawa chết, hưởng thọ 35 tuổi: hai công trình được hợp thành phương pháp Mise-Nishikawa và phần sở hữu bản quyền của Nishikawa được thừa kế cho con trai Shinkichi Nishikawa, cũng là cháu nội của Mikimoto
các trợ lý Sukeyo và Masayo Fujita của Nishikawa tiếp tục nghiên cứu phương pháp Mise-Nishikawa: anh em Fujita tiếp tục rèn giũa phương pháp, và Mikimoto nhận thấy nó mở rộng quy mô tốt hơn mọi phương pháp ông từng thực hiện trước đó
năm 1916 Mikimoto đăng ký bản quyền và bắt đầu sản xuất hàng loạt
Suy thoái
ngọc trai nuôi cấy Nhật Bản bán giá rẻ bằng 1 phần 3 ngọc tự nhiên: khách hàng cũng chuộng hơn - ngọc nuôi cấy đã lớn hơn, nhất quán và sáng hơn ngọc tự nhiên
năm 1926 Nhật Bản thống trị ngành ngọc trai nuôi cấy: ngoài nông trại ngọc Mikimoto lớn lâu đời nhất, có hơn 30 nông trại khác với 67 vạn hàu ngọc trai
năm 1931 có 51 nông trại làm ra 1 triệu ngọc trai mỗi năm
năm 1929 Đại suy thoái đã đánh sụp thị trường ngọc trai và dẫn đến biến động xã hội: các thợ lặn mò ngọc trai đã vỡ nợ, nhiều người tìm đến người Anh để giải quyết tranh chấp và cơ hội được xoá nợ
thập niên 1930 các thuyền trưởng không còn lãi từ mỗi chuyến mò ngọc trai nữa: nên đã thả hoàn toàn thợ lặn mò ngọc trai - các thợ lặn mất việc
các chính phủ Vùng Vịnh cũng nhận thấy sụp đổ doanh thu ngọc trai: may mắn là họ tìm thấy dầu khí
Kết
tương đồng giữa những phương pháp Mise và phương pháp Nishikawa đã khiến sử gia C. Denis George (ảnh dưới) cho rằng nhà thuỷ sinh san hô Saville-Kent người Anh mới là người thực sự phát minh ra phương pháp: hai người Nhật Bản chỉ lấy về quê và tuyên bố là của mình
ta có thể chắc chắn rằng Saville-Kent phát minh cách nuôi cấy ngọc trai bán-cầu, nhưng ngọc hình-cầu thì không chắc: ghi chép phương pháp của ông rất ít và ông đã mất năm 1909
đầu thập niên 1900 cộng đồng khoa học đã phần lớn biết cái gì tạo nên ngọc trai tự nhiên và thậm chí cả cơ chế diễn ra: người ta khám phá pearl-sac từ năm 1856
câu hỏi là tại sao người Nhật Bản là người đầu tiên kiếm lợi [capitalize] được phương pháp? Nhật Bản lần đầu tiên công nghiệp hoá việc sản xuất ngọc trai nuôi cấy vì phần còn lại của thế giới đã mải gây dựng hoạt động nuôi cấy ngọc trai dựa trên lý thuyết nhiễm ký sinh trùng
mặc dù hàu Akoya không có ký sinh trùng giống với phương Tây, chúng vẫn làm ra ngọc trai giống: đây là kiến thức nội bộ đã khiến các nhà khoa học Nhật Bản và Mikimoto tìm kiếm tác nhân kích thích khác